Download Tiểu luận Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại ngoài hợp đồng: Một số vấn đề và thực tiễn

Download miễn phí Tiểu luận Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại ngoài hợp đồng: Một số vấn đề và thực tiễn





MỤC LỤC
BÀI LÀM. 1
A. PHẦN LÝ LUẬN CHUNG. 1
I. Khái quát về trách nhiệm và điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 1
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 1
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 2
2.1 Có thiệt hại xảy ra. 2
2.2 Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. 3
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật. 3
2.4 Có lỗi của người gây thiệt hại. 3
3. Phân biệt trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo hợp đồng. 4
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân. 5
1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi. 5
2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên 5
2.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi. 5
2.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. 6
3. Năng lực bồi thường thiệt hại của người được giám hộ 7
4. Một số trường hợp riêng biệt về năng lực bồi thường thiệt hại. 8
4.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là người của pháp nhân gây ra. 8
4.2. Năng lực bồi thường của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự 8
B. PHẦN LIÊN HỆ THỰC TẾ. 9
III. KẾT LUẬN. 13
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Đề bài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại ngoài hợp đồng. Một số vấn đề và thực tiễn.
BÀI LÀM.
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại từ những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm của bản thân mình là một quyền cơ bản của công dân. Qua sự bồi thường thiệt hại sẽ bù đắp được những mất mát, khắc phục hậu quả và giảm đi nỗi đau về tinh thần của người bị thiệt hại. Đồng thời thấy được sự cần thiết của những quy định của pháp luật đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Hiện nay, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005)và một số văn bản pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong trách nhiệm BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan giải khi tiếp cận. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại ngoài hợp đồng. Một số vấn đề và thực tiễn.
Đối với đề tài này, em xin đi sâu vào vấn đề năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Để có thể làm rõ vấn đề trên, ta cần có cơ sở để tiếp cận vấn đề.
A. PHẦN LÝ LUẬN CHUNG.
I. Khái quát về trách nhiệm và điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Trong bộ luật dân sự không quy định cụ thể các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường. Nhưng từ những quy định đó ta có cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường phát sinh khi có các điều kiện sau:
2.1 Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trách nhiệm dân sự dù thiệt hại không nghiêm trọng cũng phải bồi thường. Nếu không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Từ điều 608 đến điều 611 BLDS quy định về các loại thiệt hại. Trong đó:
Thiệt hại về tài sản, đó là việc tài sản bị mất, bị hủy hoại, hư hỏng, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Tổn thất về tinh thần. Đời sống tinh thần là một phạm trù rất rộng, đó là những tình cảm, cảm xúc của con người khi bị tổn hại sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực như đau thương, âu sầu, góa bụa…. Trong quy định của pháp luật dân sự thì người nào làm người khác bị tổn hại tinh thần thì phải bồi thường nhằm mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại.
2.2 Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Đó là những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tinh thần của người khác mà được pháp luật bảo về. Hành vi trái pháp luật là những hành vi không xử sự theo những quy định của pháp luật, trái với đạo đức xã hội. Hành vi được thể hiện dưới dạng hành động hay không hành động. Trong luật hình sự thì hành động là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm dù có điều kiện để làm.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng không trái pháp luật. Đó là những trường hợp trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hay có sự đồng ý của người bị thiệt hại. Nếu vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì phải bồi thường thiệt hại.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được biêu hiện.
Về mặt thời gian, hành vi chính là nguyên nhân gây ra hậu quả đó. Hành vi xảy ra trước, kết quả xảy ra sau. Hậu quả xảy ra phải chứa đựng khả năng gây thiệt hại của hành vi. Đồng thời hậu quả chính là sự hiện thực hóa khả năng gây hậu quả của hành vi. Từ đó, mới xác định được chắc chắn giữa hành vi và hậu quả có có mối liên hệ hay không.
2.4 Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biêu hiện dưới hình thức cố ý hay vô ý.
Lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức cố ý và vô ý. Trong đó lỗi cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hay không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hay thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hay có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Trong trách nhiệm dân sự có nhiều trường hợp được coi là lỗi suy đoán bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy hành vi đó được coi là có lỗi. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng được xác định theo nguyên tắc sau:
a. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vô ý hay cố ý, mà người gây thiệt hại hoàn toàn không c...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top