kenny.nuwuen

New Member
Download Tiểu luận Lỗi trong trách nhiệm dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Download miễn phí Tiểu luận Lỗi trong trách nhiệm dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn





Với khái niệm lỗi trong trong Luật dân sự Việt Nam, liệu có nên coi lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra hay là định nghĩa lỗi trên cơ sở trạng thái tâm lý của chủ thể mà khi xem xét lỗi họ dựa trên tiêu chuẩn mức độ quan tâm của chủ thể đến việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ví dụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa thì người mua phải trả tiền khi nhận hàng. Nếu người mua không trả tiền tức là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự do luật định. Không thể dùng trạng thái tâm lý để định giá lỗi của người mua như quan niệm truyền thống về lỗi. Để xác định lỗi của người mua chúng ta sử dụng tiêu chí khác, tiêu chí đó là đối với người bình thường khi mua hàng thì phải thanh toán, thế nhưng người này đã không thanh toán tiền mua hàng, vì vậy bị coi là có lỗi, lỗi này được coi là lỗi cố ý. Một ví dụ khác, một người cho người khác (không có bằng lái) mượn xe máy nhưng không hỏi người này có bằng lái hay chưa, và người này khi lưu thông gây tai nạn.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Đề bài: Lỗi trong trách nhiệm dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
Bài làm:
Từ xưa đến nay có nhiều học giả, trong đó có các luật gia đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác định yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự.
A) Một số vấn đề về lý luận.
1) Về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự ( trách nhiệm dân sự)
a) Khái niệm:
Khi một nghĩa vụ dân sự được xác lập, các bên phải thực hiện nội dung của nghĩa vụ đó. Nếu một bên vi phạm nghĩa vụ ( không thực hiện hay thực hiện không đúng, không đầy đủ), thì phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mà pháp luật đã dự liệu. Khoản 1 Điều 302 BLDS 2005 quy định: “bên có nghĩa vụ làm thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Như vậy, các bên có nghĩa vụ dân sự với nhau kể từ khi quan hệ nghĩa vụ được xác lập nhưng trách nhiệm dân sự chỉ xuất hiện khi có một bên vi phạm nghĩa vụ của mình.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự là sự cưỡng chế của nhà nước buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hay phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra cho bên kia.
b) Phân loại trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự:
=.= Trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Với trách nhiệm này, bên vi phạm nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ do bên bị vi phạm yêu cầu, trường hợp đá có yêu cầu mà bên vi phạm vẫn không thực hiện thì bên kia có thể yêu cầu nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế thực hiện đối với bên vi phạm nhĩa vụ.
=.= Trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Được đặt ra khi hành vi vi phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại. Mặt khác một người chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Vì vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ phải dựa trên các cơ sở sau:
/ Có hành vi trái pháp luật.
/ Có thiệt hại xảy ra trong thực tế.
/ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt ahij xảy ra
/ Lỗi của người vi phạm nghĩa vụ.
Điều quan trọng nhất được đặt ra trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chính là lỗi của người vi phạm nghĩa vụ.
2) Về lỗi
Cơ sở phát sinh trách nhiệm pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật dân sự. Một trong những yếu tố cấu thành đó là lỗi của người vi phạm. Theo nguyên tắc chung thì lỗi là điều kiện cần thiết để áp dụng trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự (mặc dù pháp luật dân sự coi lỗi là điều kiện tiên quyết để áp dụng trách nhiệm dân sự nhưng lại không đưa ra định nghĩa rõ ràng về lỗi. Điều này đã gây ra một số bất cập trong việc xác định trách nhiệm khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự, đặc biệt là trong trách nhiệm dân sự liên đới). Chính vì vậy mà quy phạm về trách nhiệm do có lỗi được đưa vào Bộ Luật dân sự. Khoản 1 Điều 308 Bộ Luật dân sự (BLDS) quy định rằng, người không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hay lỗi vô ý trừ trường hợp có thoả thuận khác hay pháp luật có quy định khác. Điều 604 BLDS cũng quy định: “ người nào do lỗi cố ý hay vô ý…mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
Như vậy, nếu không có thỏa thuận hay pháp luật không quy định khác, thì chỉ khi nào người vi phạm nghĩa vụ dân sự có lỗi mới phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, về nguyên tắc, người đã được xác định là có nghĩa vụ mà không thực hiện hay thực hiện không đúng thì đương nhiên bị coi là có lỗi. Vì vậy người thực hiện nghĩa vụ chỉ không phải bồi thường thiệt hại nếu họ chứng minh được thiệt hại là do bất khả kháng hay hoàn toàn là do lỗi của bên có quyền.
Về bản chất, lỗi được xác định là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật.
Khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho phù hợp với pháp luật, tránh gây thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh thái độ nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Căn cứ vào nhận thức của người gây thiệt hại đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện, lỗi được chia thành các hình thức sau:
/ Lỗi cố ý: một người bị coi là có lỗi có ý nếu họ đã nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu người này mong muốn thiệt hại xảy ra từ việc thực hiện hành vi thì lỗi của họ là lỗi cố ý trực tiếp. Nếu họ không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra thì lỗi của họ là lỗi cố ý gián tiếp.
/ Lỗi vô ý: người có hành vi gây thiệt hại được xác định là có lỗi vô ý nếu họ không thấy trước được hành vi của mình có thể gây thiệt hại mặc dù họ có thể phải biết hay có thể biết trước thiệt hại xảy ra khi họ thực hiện hành vi đó. Nếu người này xác định thiệt hại không xẩy ra thì lỗi của họ được xác định là lỗi vô ý cẩu thả. Nếu họ cho rằng có thể ngăn chặn thiệt hại thì lỗi của họ là lỗi vô ý vì quá tự tin.
Khác với các ngành luật khác, luật dân sự đã quy định người có hành vi trái pháp luật thì phải chịu trách nhiệm dân sự bất luận hành vi đó được thực hiện bởi lỗi cố ý hay vô ý ( Điều 308 BLHS). Như vậy về nguyên tắc chung khi áp dụng trách nhiệm dân sự không cần xác định hình thức lỗi của người gây thiệt hại, đặc biệt, không bao giờ phải xác định trạng thái lỗi của người đó.
Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, việc làm này lại có ý nghĩa quan trọng khi xem xét người gây thiệt hại có được giảm mức bồi thường thiệt hại hay không. Ví dụ như trường hợp người gây thiệt hại có thể giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hạ quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài.
B) Một số vấn đề thực tiễn về lỗi trong trách nhiệm dân sự.
1) Lỗi trong trách nhiệm dân sự ở nước ngoài.
Theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu: “Không có lỗi nếu như tuân thủ tất cả những gì được yêu cầu”. Trong Luật La Mã, lỗi cũng được phân chia thành lỗi cố ý (dolus) và lỗi vô ý (culpa) và nói chung giống quy định của khoản 2 Điều 308 BLDS Việt Nam. Tuy nhiên trong Luật La Mã có một điều khác biệt đó là trong trường hợp lỗi cố ý thì thỏa thuận của các bên về miễn trừ trách nhiệm không có hiệu lực. Trong Luật La Mã lỗi vô ý được nói đến nhiều hơn bởi rằng lỗi cố ý đã quá rõ ràng để áp dụng trách nhiệm. Được coi là lỗi vô ý nếu như không nhìn thấy trước được những gì mà mọi người chu đáo, cẩn thận có thể nhìn thấy. Lỗi vô ý cũng được chia thành hai loại. Lỗi vô ý không đáng k
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top