vosac_daisu

New Member
Download Tiểu luận Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Download miễn phí Tiểu luận Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự





MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 1
I/ Khái Quát Chung. 2
1.1) Khái Niệm. 2
1.2) Phân loại. 2
II/ Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự 3
2.1) Quyền của người bào chữa 3
2.2) Nghĩa vụ của người bào chữa 8
III/ Thực trạng những quy định về người bào chữa ở nước ta hiện nay. 10
IV/ Phương hướng phát triển và hoàn thiện những quy định về người bào chữa. 11
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ng tố tụng hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử…của các cơ quan tiến hành tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Để góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, pháp luật quy định cho họ có quyền tự bảo chữa hay nhờ người bào chữa. Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định pháp lý về người bào chữa và địa vị pháp lý người bào chữa. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đến hiệu quả của công việc bào chữa. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn của tố tụng hình sự đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh, ở đó quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ tốt hơn. Để các bạn hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em đã nghiên cứu vấn đề “ địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”. bài viết chắc sẽ không tránh khỏi những sai lầm, mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
I/ Khái Quát Chung.
1.1) Khái Niệm.
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.2) Phân loại.
Theo quy định tại khoản 1 điều 56 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, người bào chữa có thể là luật sư, người thay mặt hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật và tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp
- Người thay mặt hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo : là cha cha mẹ hay người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hay người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần
- Bào chữa viên nhân dân : có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư các là người bào chữa, luật sư, thay mặt hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho người bào chữa.
II/ Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, đảng ta đã xác định mở rộng dân chủ và đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống là cần thiết. BLTTHS năm 1988 trong quá trình thi hành gần 15 năm qua, đã được sửa đổi bổ sung ba lần ( 6/1990, 12/1992 và 6/2000). Hiện nay, thực hiên chủ trương cải cách tư pháp trong đó những vấn đề liên quan đến người bào chữa và địa vị pháp lý của người bào chữa đã được các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2/1/2002 của bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng ta đã xác định : Phải cụ thể hóa các quy định của hiến pháp năm 1992 về người bào chữa và thể chế hóa các chủ trương đó thành những luật định cụ thể, sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bộ Luật TTHS năm 2003 đã được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 thay thế BLTTHS năm 1988. Bộ Luật TTHS 2003 quy định rõ ràng, đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Dưới đây là phần trình bày về địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và trong đó sẽ có những so sánh, những điểm mới hơn so với BLTTHS năm 1988 để người đọc hiểu rõ hơn.
2.1) Quyền của người bào chữa
So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung về quyền của người bào chữa thể hiện trước hết ở quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa: Trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Việc này giúp cho người bào chữa được tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi cho người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ cho bị can, để có thể bào chữa cho bị can ở gian đoạn sau của quá trình TTHS
Tại khoản 2, điểm a, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) : người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong văn bản lời khai có chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hay bất lợi cho bị can mà sau này cơ quan điều tra có thể sử dụng để buộc tội… để yêu cầu thân chủ khai lại giải thích lại hay đính chính lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình trạng sau này khi đã có chữ ký xác nhận rồi thì đó đã được coi là chứng cứ. Quy định như vậy, là mở rộng sự tham gia của người bào chữa vào trong các hoạt động điều tra , điều này không những thể hiện tính dân chủ công khai trong hoạt động điều tra mà còn giúp cho cơ quan điều tra và cụ thể là điều tra viên nâng cao trình độ của mình. Vì thế khi điều tra viên hỏi cung hay lấy lời khai của bị can, bị cáo mà có luật sư bào chữa ( người am hiểu pháp luật ) ngồi bên cạnh thì những câu hỏi, cách hỏi và cách viết biên bản cũng phải cẩn thận cho đúng pháp luật hơn.
Tại khoản 2, điểm b, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) có quy định: người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định quyền này tạo điều kiện để người bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra mà mình khi thấy cần thiết.
Tại khoản 2, điểm c, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) quy định : người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của bộ luậ...
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top