vitbau369

New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Sự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2012
Chủ đề: Hoàng, Đức Hậu
Văn học Tày
Truyện thơ
Thơ Nôm khuyết danh
Thơ
Miêu tả: 84 tr. + CD-ROM + tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học Việt Nam -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012
Hình dung về quá trình phát triển liền mạch của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu – một tác giả văn học viết in dấu ấn cá nhân rõ nét vào sự phát triển của thơ Tày thời cận đại. Qua truyện thơ Nôm Tày nhất là một số truyện tiêu biểu để luận giải một số vấn đề: Thơ nôm Tày thuộc văn học dân gian hay văn học thành văn?, điểm xuyết qua một vài nét về nội dung, nghệ thuật, hệ thống nhân vật và bức tranh sinh hoạt của người Tày thời xưa qua truyện thơ Nôm. Tìm hiểu thơ Hoàng Đức Hậu trên một số phương diện: nội dung, nghệ thuật và đặc biệt là dấu ấn của một cá tính sáng tạo của thơ Tày cận đại. Từ việc tìm hiểu, phân tích những nét chính như trên, làm rõ có hay không một dòng chảy trong văn học viết Tày và cố gắng tìm ra cái logic nội tại (quá trình vận động) của bộ phận văn học này
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
1. Ý nghĩa, mục đích của đề tài ................................................................... 1
1.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài............................................................... 1
1.2. Mục đích của đề tài........................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 3
5. Bố cục của luận văn ................................................................................ 3
NỘI DUNG ................................................................................................... 5
Chương 1. VĂN HỌC VIẾT DÂN TỘC TÀY - MỘT BỘ PHẬN HỮU CƠ
CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM ................................................................... 5
1.1 Giới thiệu về tộc người và truyền thống văn hóa ................................... 5
1.2 Hệ thống hóa những thành tựu nghiên cứu về chữ Nôm Tày................ 8
1.3 Về sự ra đời và quá trình phát triển của văn học viết Tày.................... 13
Chương 2. TRUYỆN THƠ NÔM TÀY KHUYẾT DANH....................... 22
2.1 Một cái nhìn toàn cảnh về truyện thơ Nôm Tày................................... 22
2.2 Một số truyện Nôm Tày tiêu biểu........................................................ 32
2.2.1 Truyện Lưu Đài – Hán Xuân......................................................... 33
2.2.2 Truyện Lý Thế Khanh................................................................... 41
2.3 Truyện thơ Nôm – bức tranh toàn diện và chân thực về cuộc sống của
tộc người Tày thời kì trung đại.................................................................. 47
Chương 3. THƠ HOÀNG ĐỨC HẬU VÀ SỰ ĐỊNH HÌNH CỦA PHONG
CÁCH VĂN HỌC VIẾT TRONG VĂN HỌC TÀY......................................... 54
3.1 Thơ Hoàng Đức Hậu – dấu ấn của một cá tính sáng tạo ...................... 54
3.2 Về nội dung và nghệ thuật thơ Hoàng Đức Hậu .................................. 67
3.3 Từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu .................. 78
KẾT LUẬN................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 83Sự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 1
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa, mục đích của đề tài
1.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Dân tộc Tày là một tộc ngƣời có số dân đông xếp sau dân tộc Kinh.
Theo các điều tra dân số học, hiện nay tộc ngƣời Tày có khoảng 1,7 triệu dân,
cƣ trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam nhƣ: Cao Bằng, Bắc
Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang…
Cũng nhƣ các tộc ngƣời khác, ngƣời Tày từ cổ chí kim cũng ƣơm
trồng, nuôi dƣỡng và không ngừng phát triển một không gian văn hóa, văn
học đa dạng và có chiều sâu. Tất nhiên kho tàng văn học của ngƣời Tày nhỏ
hơn rất nhiều so với sự đồ sộ, muôn tầng nhiều vẻ của nền văn học Việt,
nhƣng những thành tựu về văn học mà một tộc ngƣời thiểu số đóng góp cho
nền văn học nƣớc nhà cũng đã tạo ra một dấu ấn rất đáng nghiên cứu.
Dân tộc Tày có một kho tàng văn học dân gian sống động và rất đa
dạng, từ những câu sli, câu lƣợn, những câu chuyện cổ tích, thần thoại đến
những bài hát then làm mê đắm lòng ngƣời. Bên cạnh sự phát triển không
ngừng của văn học dân gian, sự xuất hiện của chữ Nôm Tày là một trong
những điều kiện tiên quyết đƣa đến sự ra đời của văn học thành văn. Kể từ
đây những ngƣời trí thức Tày đã cho ra đời những tác phẩm đƣợc viết bằng
thứ chữ ghi âm tiếng dân tộc mình, giúp nâng cao đời sống tinh thần cho
ngƣời dân bản địa và tạo nên một bản hòa âm độc đáo: Sự hòa quyện giữa văn
học dân gian và văn học thành văn của dân tộc Tày.
Từ khi bộ phận văn học viết Tày xuất hiện với sự có mặt ngày càng rộng
mở và phong phú các truyện thơ Nôm khuyết danh (với đủ đề tài, nội dung và
hệ thống nhân vật) là một bằng chứng quan trọng đƣa chúng tui đi đến giả thiết
rằng: Từ lúc khai sinh văn học viết Tày là một dòng chảy liên tục với sự sáng
tạo không ngừng của những ngƣời trí thức bản tộc. Tuy nhiên, sự quan tâm
nghiên cứu của học giả cả nƣớc cũng nhƣ các nhà nghiên cứu địa phƣơng dành
cho bộ phận văn học này chƣa thật xứng đáng với tầm vóc của nó.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 2
Và có một thực tế, quá trình hội nhập với tộc ngƣời chủng thể đang
ngày càng làm nhạt nhòa bản sắc riêng của tộc ngƣời Tày, sự mở rộng quan
hệ càng tăng lên bao nhiêu thì nguy cơ làm mất bản sắc càng trở nên rõ rệt
bấy nhiêu. Có một phƣơng diện khác là sự tập trung hóa của môi trƣờng đô
thị đang diễn ra mạnh mẽ, con em có học sống và hƣớng đến môi trƣờng đô
thị nhiều hơn nên chƣa ý thức về bảo vệ bản sắc dân tộc.
Trong khi đó, phƣơng châm của Đảng và nhà nƣớc là phải giữ gìn bản
sắc dân tộc “hòa nhập nhƣng không hòa tan”. Chính vì vậy chúng tui nghiên
cứu đề tài này, hy vọng rằng sẽ mang lại một cách nhìn mới mẻ về văn học
viết của ngƣời Tày và những sự đổi thay của nó thời kỳ trung - cận đại.
1.2. Mục đích của đề tài
Qua đề tài này chúng tui hƣớng tới mục đích:
- Hình dung về quá trình phát triển liền mạch của văn học viết Tày từ
truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu – một tác giả văn học
viết in dấu ấn cá nhân rõ nét vào sự phát triển của thơ Tày thời cận đại.
- Qua truyện thơ Nôm Tày nhất là một số truyện tiêu biểu để luận giải
một số vấn đề: Thơ nôm Tày thuộc văn học dân gian hay văn học thành văn?,
điểm xuyết qua một vài nét về nội dung, nghệ thuật, hệ thống nhân vật và bức
tranh sinh hoạt của ngƣời Tày thời xƣa qua truyện thơ Nôm.
- Tìm hiểu thơ Hoàng Đức Hậu trên một số phƣơng diện: nội dung,
nghệ thuật và đặc biệt là dấu ấn của một cá tính sáng tạo của thơ Tày cận đại.
- Từ việc tìm hiểu, phân tích những nét chính nhƣ trên, chúng tui sẽ bàn
tiếp một vấn đề: Có hay không một dòng chảy trong văn học viết Tày và cố
gắng tìm ra cái logic nội tại (quá trình vận động) của bộ phận văn học này.
2. Lịch sử vấn đề
Có rất ít những công trình khoa học nghiên cứu về văn học Tày.
Thƣờng những tác giả bản tộc vừa là ngƣời sƣu tầm, phiên âm, dịch nghĩa,
chú giải vừa đƣa ra những gợi mở đầu tiên về văn học Tày. Đó là các nhóm
tác giả Triều Ân, Hoàng Quyết với các tuyển tập Truyện thơ Nôm Tày; Bế SỹSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 3
Uông, Ma Trƣờng Nguyên với Tam Mậu Ngọ; Lục Văn Pảo với Lượn cọi,
Nông Quốc Chấn (chủ biên) với Truyện thơ Tày Nùng…
Công trình khoa học đƣợc xem là mang tính hệ thống, sâu sắc nhất trong
nghiên cứu văn học Tày là Truyện thơ Tày nguồn gốc, quá trình phát triển và thi
pháp thể loại của Vũ Anh Tuấn, một vài bài viết liên quan đến văn hóa, văn học
Tày trong Văn hóa dân gian Cao Bằng (cuốn sách tập hợp tham luận của nhiều
tác giả), luận án thạc sỹ ngữ văn của Hà Thị Bích Hiền với đề tài Truyện thơ
Nôm Tày Nùng – Điểm nối giữa văn học dân gian và văn học Tày.
Với đề tài luận văn này, chúng tui sẽ vận dụng ít nhiều tƣ liệu nghiên
cứu trong các công trình khoa học của các bậc tiền nhân. Và chúng tui cũng
sẽ nỗ lực bao quát tƣ liệu thực tế, trong khi nguồn tƣ liệu này còn hạn chế
chúng tui sẽ cố gắng suy tƣ và đoán định để đƣa ra những nhận định, những
kiến giải của mình, hy vọng mang lại một cách tiếp cận mới cho dòng văn học
còn ít đƣợc cày xới, còn mở ra những khoảng không bất tận cho sự tìm hiểu
và kiến giải này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Truyện Nôm Tày (một số truyện tiêu biểu nhất).
- Thơ Hoàng Đức Hậu do Triều Ân biên soạn, Nhà xuất bản Việt Bắc, 1974.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp, hệ thống hóa tƣ liệu.
- Kết hợp phƣơng pháp nghiên cứu văn học viết và văn học dân gian.
- Phƣơng pháp nghiên cứu văn học mang tính chất văn hóa (Sử dụng
những kinh nghiệm và phƣơng pháp của văn hóa học).
- Phƣơng pháp xã hội học.
- Phƣơng pháp so sánh.
5. Bố cục của luận văn
Phần mở đầu:
1. Ý nghĩa, mục đích của đề tài
1.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 4
1.2 Mục đích của đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
5. Bố cục của luận văn
Phần nội dung
Chƣơng 1: Văn học viết của dân tộc Tày – một bộ phận hữu cơ của nền
văn học Việt nam
1.1 Giới thiệu về tộc ngƣời và truyền thống văn hóa.
1.2 Hệ thống hóa những thành tựu nghiên cứu về chữ Nôm Tày.
1.3 Về sự ra đời và quá trình phát triển của văn học viết Tày.
Chƣơng 2: truyện thơ Nôm Tày khuyết danh
2.1 Một cái nhìn toàn cảnh về truyện thơ Nôm Tày.
2.2 Một số truyện Nôm Tày tiêu biểu.
2.3 Truyện thơ Nôm – bức tranh toàn diện và chân thực về cuộc sống
của tộc ngƣời Tày thời kì trung đại.
Chƣơng 3: Thơ Hoàng Đức Hậu và sự định hình của phong cách văn
học viết trong văn học Tày.
3.1. Thơ Hoàng Đức Hậu – dấu ấn của một cá tính sáng tạo.
3.2. Về nội dung và nghệ thuật thơ Hoàng Đức Hậu.
3.3. Từ truyện thơ Nôm đến thơ Hoàng Đức Hậu.
Kết luận
Tài liệu tham khảoSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 5
NỘI DUNG
Chương 1
VĂN HỌC VIẾT DÂN TỘC TÀY - MỘT BỘ PHẬN HỮU CƠ
CỦA NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM
1.1 Giới thiệu về tộc người và truyền thống văn hóa
Theo những số liệu thống kê dân số học của Tổng cục thống kê, dân tộc
Tày có số dân đông đảo nhất trong cộng đồng các tộc ngƣời thiểu số Việt Nam.
Vậy tên gọi “Tày” có ý nghĩa gì? Đó là “tên đồng bào tự gọi và ngày
nay nó trở thành tên gọi chính thức của dân tộc thay cho từ “Thổ” trƣớc đây”
[15, tr.13]. “Thổ” có nghĩa là thổ dân, ngƣời bản xứ.
Về nguồn gốc dân tộc: Theo nhiều học giả, tộc ngƣời Tày xuất hiện ở
miền bắc Việt Nam từ rất sớm. Tác giả Nguyễn Đình Khoa cho rằng: “Theo
một số nhà nghiên cứu thì vào khoảng hai ba nghìn năm nay các tộc ngôn ngữ
Tày – Thái đã có hai lần thiên cƣ lớn xuống phƣơng nam: một lần vào nửa
cuối thiên niên kỉ I trƣớc công lịch, một lần vào những thế kỉ của thiên niên kỉ
I và đầu thiên niên kỉ II sau công lịch.” [15, tr.116] Những thiên cƣ lớn ấy đã
trải qua nhiều thăng trầm, nhiều biến cố lịch sử và cuối cùng cũng đi đến ổn
định: “Giới hạn cực nam của họ là ở miền núi rừng Việt Bắc”. Một bộ phận
khác ổn định muộn hơn, đó là các tộc Thái ở khu vực Tây Bắc và các huyện
miền tây Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay. Còn trong cuốn sách mà tác giả
Ninh Văn Độ chủ biên có đề cập về nguồn gốc của tộc ngƣời Tày nhƣ sau:
“Trong thƣ tịch cổ Trung Quốc gọi các bộ lạc ở vùng phía nam Trung Quốc
và bắc Việt Nam là Bách Việt. Bộ lạc Âu Việt của nhóm Tày – Nùng và bộ
lạc Lạc Việt của nhóm Việt - Mƣờng nằm trong Bách Việt, về sau liên minh
với nhau thành nƣớc Âu Lạc”. Điều đó chứng tỏ rằng tộc ngƣời Tày là một
trong những chủ nhân đầu tiên của nƣớc Việt cổ. Tác giả Vũ Anh Tuấn trong
chuyên luận về truyện thơ Tày cũng đã một lần nữa khẳng định: “Ngƣời Tày
ở Việt Nam là một cộng đồng có tính thống nhất cao, sớm có ý thức tộc ngƣời
và tự giác dân tộc” [22, tr.11].
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 6
Ngoài những nhóm ngƣời gốc Tày chính thức thì cũng có nhóm Tày
hóa vì nhiều lý do. Một trong những nguyên do làm cho cƣ dân Tày dần dần
đƣợc phân hóa là do sự giao lƣu buôn bán và sự giao thoa văn hóa với các dân
tộc khác đặc biệt là tộc ngƣời Việt. Chắc hẳn ai cũng biết câu thành ngữ dân
gian “Kinh già hóa Thổ”, phản ánh một thực tế rằng các dân tộc khác đến cƣ
trú ở vùng đất này (đƣợc bổ nhiệm làm quan, binh lính lên đồn trú, do tha
phƣơng cầu thực…) đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc của văn hóa Tày và trở nên
Tày hóa. Một khía cạnh khác của quá trình Tày hóa này là kiểu hôn nhân hợp
tộc Tày – Việt mà giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng nhận định là kiểu hôn nhân “mà
nét trội là “chồng Việt – vợ Tày” và kết quả là bầy con cháu mang cả hai
dòng máu Việt – Tày với những tên họ khi Tày khi Việt.” [16, tr.53].
Về hệ thống ngôn ngữ, Tiếng Tày thuộc ngôn ngữ Tày – Thái trong ngữ
hệ Thái – Ka dai. Tiếng Tày có vốn từ gốc khá lớn và cũng có sự vay mƣợn bổ
sung tiếng Việt để kho từ vựng đƣợc hoàn chỉnh, phong phú hơn. Trong ngôn
ngữ Tày, các nhóm từ cũng đƣợc phân chia rõ rệt nhƣ tiếng Việt: danh từ,
động từ, tính từ…Kiểu cấu trúc ngữ pháp trong lời nói hằng ngày và trong văn
tự tiếng Tày cũng giống với cấu trúc tiếng Việt. Bên cạnh hệ thống từ vựng
phong phú, tộc ngƣời Tày cũng sáng tạo ra hệ số đếm tƣơng đối hoàn chỉnh.
Trong quan hệ gia đình, ngƣời Tày theo chế độ phụ hệ. Sau này, sự ảnh
hƣởng của Khổng giáo càng làm cho vai trò của ngƣời đàn ông trở nên quan
trọng hơn. Ngƣời đàn ông phải gánh vác những công việc nặng nhọc nhƣng
cũng có quyền phán quyết những việc trọng đại trong khi phụ nữ không có
quyền tham gia ý kiến. Ngày nay, tâm lý trọng nam khinh nữ vẫn còn khá phổ
biến ở ngƣời Tày, nhất là các khu vực nông thôn. Tôn ti trật tự trong cách
xƣng hô, ngôi thứ trong gia đình Tày cũng giống gia đình Việt.
Về nhà ở: Kiến trúc nhà truyền thống của ngƣời Tày là nhà sàn (lƣờn
lạn). Kiểu nhà sàn phổ biến là ba gian hai chái hay năm gian hai chái. Cách
thiết kế nhà ở nhƣ vậy phù hợp với điều kiện thời tiết nóng ẩm, nắng mƣa thất
thƣờng của vùng Việt Bắc. Ngoài ra nhà sàn còn giúp ngƣời dân tránh đƣợcSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 7
thú dữ tấn công hay ăn thịt. Đây là điều không hiếm khi trƣớc đây rừng núi
vẫn giữ đƣợc sự hoang sơ, bạt ngàn cây cối và đa dạng về giống loài. Ngày
nay, chuyện thú dữ ăn thịt hay tấn công ngƣời ở khu vực Việt Bắc (khu
ngƣời Tày cƣ trú) không còn nữa nhƣng những nếp nhà sàn vẫn không mất đi.
Bởi nó là một thói quen về không gian sống hay đúng hơn là một phong tục
mà tổ tiên ngƣời Tày đã truyền lại từ bao đời nay.
Về ẩm thực: Ngày nay, nhờ quá trình giao thoa văn hóa Tày – Việt và
sự có mặt của truyền hình ở khắp mọi ngõ ngách bản làng, sự phát triển của
kinh tế đã làm cho văn hóa ẩm thực của ngƣời Tày trở nên thú vị, phong phú
hơn. Trƣớc đây thực phẩm chính của ngƣời Tày chủ yếu là các loại rau tự
trồng, rau rừng, các loại thịt gia súc, gia cầm, thủy sản tự chăn thả hay do săn
bẫy. Cách thức chế biến thƣờng là xào, luộc, nấu canh, nƣớng trên than hồng.
Những món nƣớng thƣờng đƣợc ngƣời Tày yêu thích hơn cả.
Từ thời xƣa, tộc ngƣời Tày quan niệm vũ trụ gồm ba cõi: cõi trời, cõi
đất và cõi nƣớc. Những câu chuyện cổ tích về sự hình thành ba cõi ấy còn
đƣợc đồng bào lƣu truyền đến ngày nay. Các tích truyện có nhiều dị bản
nhƣng đều có sự tƣơng đồng ở chỗ: từ thuở hồng hoang, trời, đất, nƣớc ở rất
gần nhau nhƣng vì những nguyên cớ khác nhau mà trời phải chạy lên trên cao
(do loài ngƣời sinh con đẻ cái đông đúc, chật chội; do có nhiều mặt trời thiêu
đốt trần gian nên đã bị chàng Pịa giƣơng cung bắn; do loài ngƣời dùng chày
thúc mạnh vào mặt trời, vì đau đớn nên mặt trời phải chạy lên trên cao…). Ba
cõi trời, đất, nƣớc không chỉ xuất hiện qua những câu chuyện cổ mà nó còn
đƣợc thể hiện đậm nét qua những truyện thơ Nôm khuyết danh và trong cả
thơ của Hoàng Đức Hậu (nhà thơ Tày xuất sắc thời kỳ cận đại).
Ngƣời Tày quan niệm muôn loài đều do Pựt Luông (hay Ngọc Hoàng
thƣợng đế) tạo ra, đó là đấng tối cao trong tín ngƣỡng vạn vật hữu linh của
ngƣời Tày. Sau này, sự tiếp biến văn hóa Tày – Việt, Tày – Hán đã làm cho
tín ngƣỡng của tộc ngƣời này chịu ảnh hƣởng sâu sắc của Tam giáo (trong đó
có Phật giáo). Thế nên ngoài việc thờ cúng tổ tiên, ngƣời ta còn thờ Đức Phật
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 8
Thích ca mà trong ngôn ngữ Tày thƣờng gọi là Bụt. Thờ cúng tổ tiên, ông bà
cha mẹ, cúng Bụt có tầm quan trọng bậc nhất trong việc cúng bái của ngƣời
Tày. Ngoài ra, họ còn cúng bà mụ (mẹ hoa), vị nữ thần đƣợc coi là thần hộ
mệnh cho trẻ con; thờ táo quân (phi cằn phầy), vị thần cai quản nhân khẩu
trong gia đình; thờ phi tiên sƣ (tổ sƣ) là ngƣời truyền dạy nghề làm thầy cúng,
thầy mo, thầy tào, thầy phù thủy…
1.2 Hệ thống hóa những thành tựu nghiên cứu về chữ Nôm Tày
Một trong những điều kiện tiên quyết đặt nền móng cho văn học thành
văn của các dân tộc đó là chữ viết. Văn học viết Tày cũng không ngoại lệ.
Nhờ sự sáng tạo, bổ sung, hoàn thiện về chữ Nôm Tày và sự nỗ lực của các trí
thức bản tộc mà dòng văn học thành văn Tày đã đƣợc hình thành từ thời trung
đại. Đó không phải là một nhận định cực đoan, phiến diện mà dựa trên những
cứ liệu văn học viết Tày thời trung đại để lại (tiêu biểu nhất là truyện thơ
Nôm). Nhƣng trƣớc hết phải lần tìm đáp án cho những hoài nghi về chữ Nôm
Tày. Trong luận văn này, chúng tui sẽ tổng kết ý kiến của các học giả uy tín
về vấn đề này. Nhìn chung những ý kiến này chƣa có sự đồng thuận nhƣng
nó sẽ gợi mở cho chúng ta về một vấn đề hóc búa mà chắc chắn cần nhiều
thời gian tìm tòi, khảo cứu hơn nữa để có thể đi đến kết luận cuối cùng.
Chữ Nôm Tày là một đề tài hấp dẫn, một đề tài còn nhiều rộng mở để các
học giả cày xới, tuy nhiên những công trình nghiên cứu về vấn đề này còn quá ít.
Có thể nói Từ điển chữ Nôm Tày của Hoàng Triều Ân và các kết luận nghiên
cứu về chữ nôm Tày của tác giả Cung Văn Lƣợc là những công trình mang tính
quy mô nhất. Ngoài ra, những quan điểm về chữ Nôm Tày của các tác giả khác
chỉ là những ý kiến “bàn thêm” trong các tham luận của họ. Tuy chỉ là bàn qua
nhƣng vô cùng hữu ích cho những ngƣời muốn nghiên cứu, muốn tìm chiếc chìa
khóa vạn năng để mở cánh cửa văn học còn khá nhiều bí ẩn này.
Có nhiều ý kiến cho rằng, khi chạy lên đóng đô ở Cao Bằng, nhà Mạc
đã truyền bá và thúc đẩy việc học giúp cho việc dùi mài kinh sử ở khu vực
này phát triển mạnh. Nhà Mạc trị vì ở đây gần một trăm năm cộng với việcSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 9
mở mang học thuật, đã biến Cao Bằng từ một mảnh đất vùng biên viễn trở
thành vùng đất có nền học vấn tốt. Từ đó nhiều ngƣời đã đặt ra giả thiết: ngƣời
ta đã chế tác chữ Nôm Tày trên cơ sở nghiên cứu kỹ lƣỡng và sử dụng thuần
thục chữ Nôm Việt. Hai ông Bế Văn Phủng và Nông Quỳnh Văn (cai quản tổ
chức âm nhạc phục vụ triều đình nhà Mạc trong những năm 1594 – 1677,
tƣơng truyền là hai ông tổ sƣ của những làn điệu Then) đƣợc đánh giá là đã sáng tạo
ra chữ Nôm Tày. Nhƣng ý kiến này không thực sự vững bền khi các nhà
nghiên cứu lật lại một vấn đề: không thể có chuyện chữ viết vừa đƣợc sáng tạo
đã đƣợc sử dụng một cách hoàn hảo, trau chuốt, nhuần nhuyễn trong các tác
phẩm Lƣợn (một thể loại văn học dân gian Tày) và truyện thơ Nôm. Chỉ khi
chữ viết ổn định, hoàn chỉnh ngƣời ta mới có thể mặc sức sử dụng kho “của
công” quý giá đó để tạo nên những giá trị tinh thần quý báu cho dân tộc mình.
Trả lời cho câu hỏi chữ Nôm Tày có từ khi nào, nhà nghiên cứu Hoàng
Triều Ân – một nhà nghiên cứu văn hóa, văn học đáng kính của dân tộc Tày
đã khẳng định qua Từ điển chữ Nôm Tày nhƣ sau: “Sự xuất hiện của chữ Nôm
Tày chính thức phải kể từ thế kỷ V. Từ đó, các trí thức Tày vận dụng, trải qua
thời gian dài, rất dài chỉnh lý, sửa chữa, bổ sung thêm để đến mƣời hai thế kỷ
sau, thế kỷ XVII, chữ Nôm Tày về căn bản đã ổn định hoàn chỉnh.”
Cho rằng chữ Nôm Tày ở thế kỷ XVII đã đạt mức hoàn hảo, nên có thể
khẳng định nó đã đƣợc hình thành trƣớc đó khá lâu là ý kiến của hai nhà
nghiên cứu Bế Viết Đẳng và Lục Văn Pảo. Nhƣng để xác định chính xác niên
đại chữ Nôm Tày ra đời thì Lục Văn Pảo tỏ ra thận trọng: “Nhƣ vậy, chữ
Nôm Tày có từ cuối thời Lê là chắc chắn, có điều là đẩy lên nữa tới thế kỉ nào
thì còn phải tìm thêm căn cứ” [22, tr.45].
Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng cũng đã đóng góp một ý kiến rất quan trọng
về sự ra đời của chữ Nôm Tày qua bài tham luận Cao Bằng dưới cái nhìn dân
gian về sự giao hòa văn hóa Tày - Việt nhƣ sau: “ Ở đây một lần nữa ta có thể
chứng kiến sự giao thoa văn hóa Tày Việt về âm nhạc và cả về văn tự - vì
nhiều ngƣời Tày học chữ Hán thầy đồ Việt rồi mới ghi ra chữ Nôm Tày.”[16,
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 10
tr.60] Nhƣ vậy, theo Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng, chữ Nôm Tày chắc chắn phải
ra đời sau chữ Hán Việt.
Cũng đồng ý kiến đó, nhà nghiên cứu Cung Văn Lƣợc của Viện nghiên
cứu Hán Nôm qua quá trình tìm hiểu về Nôm Tày lại khẳng định: “Nhờ vào
hệ thống văn tự Nôm chuyên dùng ghi âm tiếng nói dân tộc mình, từ nhiều thế
kỷ nay, chắc chắn là sau sự xuất hiện của âm Hán - Việt và chữ Nôm Việt,
ngƣời Tày – Nùng đã tạo nên hàng loạt văn bản thuộc các nội dung văn học,
lịch sử, y tế, giáo dục, nông nghiệp, quân sự…truyền lại đến ngày nay các giá
trị tinh thần bất hủ” [16, tr.84].
Học giả Vũ Anh Tuấn trong chuyên luận về truyện thơ Tày lại tỏ ý quan
tâm đặc biệt tới tác phẩm Cao Bằng tạp chí của tác giả Bế Huỳnh soạn bằng
chữ Hán ghi năm 1920. Trong chƣơng Nhân vật lục có đoạn chép: “Xƣa có
chàng Lê Thế Khanh con nhà quyền quý ở tổng Nhƣợng Bạn, châu Thạch
Lâm, Cao Bằng…Chàng vốn thông minh đặc biệt. Năm 15 tuổi, vâng lời cha
mẹ, chàng xuống Long Biên tìm thầy học. Lúc bấy giờ nƣớc ta nội thuộc Trung
Quốc vào thời nhà Tấn (317 – 420). Thế Khanh học khoảng mƣời lăm, mƣời
sáu năm trời, mấy lần thi mà không đậu. Gặp lúc nhà Tấn suy vi, Nam Triều và
Bắc Triều đánh nhau dữ, chàng bèn về quê mở trƣờng dạy học ở quê nhà trong
hai mƣơi năm. Chàng thấy chữ viết và thổ âm quê mình có nhiều chỗ không
phù hợp, chàng nghĩ cách bắt chƣớc theo phép Lục Thƣ của Trung Quốc, gia
giảm theo cách phát âm, biên soạn thành chữ Nôm quê mình, sáng tác ra các
bài hát mỗi câu bảy chữ theo các vần của bản địa…”[ 22, tr.45- 46]. Dù tài liệu
trên đã làm cho Vũ Anh Tuấn đặc biệt chú ý nhƣng ông không bàn luận gì
thêm về thời gian xuất hiện của chữ Nôm Tày. Qua chƣơng mục trên, ông chỉ
muốn củng cố rằng: “ Nếu những thông tin trên chỉ là một tài liệu tham khảo
thì nó cũng đã gợi ra những vấn đề về sự giao thoa văn hóa Hán – Việt – Tày
chắc chắn sẽ đƣợc in đậm từ đấy về sau trong các truyện nôm Tày” [ 22, tr.47].
Tính chính xác của câu chuyện trên còn phải nghiên cứu thêm. Bởi đã
là chuyện ngoài chính sử thì không thể sử dụng làm căn cứ khoa học. TuySự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 11
nhiên, giả sử câu chuyện đó bắt nguồn từ một vài cứ liệu thực thì không
những ngƣời ta xác định đƣợc niên đại sáng tạo ra chữ Nôm Tày mà còn biết
đƣợc ngƣời khai sinh ra nó nữa. Thế nên dẫu là giai thoại thì câu chuyện mà
Bế Huỳnh ghi chép lại cũng rất đáng đƣợc lƣu ý.
Sự giao thoa văn hóa Hán – Việt – Tày có lẽ là điều kiện cần và đủ để các
trí thức Tày nảy sinh ý tƣởng sáng tạo ra chữ viết ghi âm tiếng dân tộc mình.
Công việc sáng tạo, bổ khuyết, hoàn thiện cho một hệ thống chữ viết không bao
giờ là một công việc đơn giản. Một chữ viết ra đời là kết quả của những tìm tòi,
suy tƣ, hay nói một cách khác đó không thể là thành tựu của riêng một cá nhân
nào mà là sự dày công vun đắp của nhiều thế hệ trí thức bản tộc.
Về việc phân loại chữ Nôm Tày – Nùng, nhà nghiên cứu Cung Văn
Lƣợc đã chuyên tâm khảo sát và đạt đƣợc thành tựu to lớn trong đề tài này. Ở
đây chúng tui sẽ điểm qua một vài luận điểm quan trọng trong “Bảng phân
loại chữ Nôm Tày - Nùng” của ông.
Dựa theo quan hệ nguồn gốc hình thành, nhà nghiên cứu này phân biệt
chữ Nôm Tày – Nùng thành hai loại lớn: loại vay mƣợn và loại tự tạo.
“Xét theo phƣơng diện cấu tạo thì toàn bộ chữ Nôm Tày – Nùng vay
mƣợn đều là những chữ nguyên khối. Đi sâu vào các chữ vay mƣợn cần phân
biệt hai trƣờng hợp: A, Vay mƣợn từ văn bản Hán hay văn bản Hán – Việt. B,
Vay mƣợn từ văn bản Nôm – Việt” [16, tr.78].
Trong trƣờng hợp (A), tác giả lại chia nhỏ chữ Nôm Tày - Nùng thành
hai loại: loại vay mƣợn hoàn toàn và vay mƣợn không hoàn toàn về ngôn ngữ
và chữ viết. Trong loại vay mƣợn hoàn toàn chữ Hán, nếu căn cứ âm đọc làm
tiêu chí nổi bật thì có ba trƣờng hợp khác nhau: đọc theo âm Hán – Việt, đọc
chệch âm Hán – Việt, đọc chệch âm tiền Hán – Việt.
Trƣờng hợp (B) cũng đƣợc tác giả phân thành hai loại nhƣ vậy. Nhƣng
ở loại vay mƣợn chữ Nôm Việt hoàn toàn lại đƣợc chia thành hai trƣờng hợp:
mƣợn chữ Nôm Việt, giữ nguyên ba mặt hình – âm – nghĩa; mƣợn chữ Nôm
Việt giữ nguyên hình và nghĩa, nhƣng đọc chệch với âm Nôm Việt. Còn ở
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 12
loại mƣợn chữ Nôm Việt không hoàn toàn đƣợc tác giả chia thành: “Mƣợn
chữ Nôm Việt để biểu thị một từ thuần Tày – Nùng đồng âm nhƣng có nghĩa
khác với từ Nôm Việt” và “ Mƣợn chữ Nôm Việt nhƣng không mƣợn âm và
nghĩa, đọc âm Tày – Nùng để biểu thị một từ thuần Tày – Nùng có nghĩa khác
với từ Nôm Việt” [16, tr.80].
Còn với mảng chữ do ngƣời Tày – Nùng tự tạo tác giả chia làm hai
loại: chữ nguyên khối và chữ có thành tố trực tiếp (hay còn gọi là nhóm chữ
ghép). Qua quá trình khảo sát, nhà nghiên cứu Cung Văn Lƣợc nhận định:
“Trong loại chữ Nôm Tày – Nùng tự tạo là chữ nguyên khối thì hầu hết đều là
những chữ dựa vào nguyên khối chữ Hán đã có sẵn rồi ngƣời Tày – Nùng tiến
hành gia công, cải biến…” [16, tr.81]. Ngƣợc lại, mảng chữ có thành tố trực
tiếp (nhóm chữ ghép) lại là sự kết hợp của hai thành tố Âm + Âm, Nghĩa +
Nghĩa và Âm + Nghĩa, trong đó nhóm từ xuất phát từ Âm + Nghĩa có số
lƣợng lớn hơn hai nhóm còn lại. Ngoài ra “trong chữ Nôm Tày – Nùng tự tạo
đã nảy sinh một hiện tƣợng đặc biệt, thƣờng gặp trong các văn bản dân ca trữ
tình nhƣ Sli và Lƣợn ở Cao Bằng, một hình thức chữ ghép không hề thấy có ở
văn bản Hán và ở cả văn bản Nôm Việt. Đó là dùng hai chữ Nôm Tày – Nùng
ghép lồng vào nhau, tạo nên một chữ Nôm Tày – Nùng mới” [16, tr.83].
Sau một quá trình khảo cứu công phu, nhà nghiên cứu Cung Văn Lƣợc đã
khẳng định trong tiêu đề bài tham luận của ông đƣợc in trong Văn hóa dân gian
Cao Bằng: văn bản và văn tự Nôm Tày - Nùng là một “thành tựu văn hóa trong
lịch sử dân tộc”. Ông cũng thể hiện niềm hy vọng rằng: “Di sản các văn bản Nôm
Tày – Nùng lớn lao đó đang chờ đợi sự dày công của nhiều nhà nghiên cứu, nhất
là các nhà nghiên cứu ngƣời bản ngữ Tày – Nùng Việt Nam” [16, tr.84].
Qua việc tóm tắt lại những quan điểm của các học giả ở trên ta có thể
khẳng định: vào thế kỷ XVII, chữ Nôm Tày đã hoàn chỉnh và đƣợc sử dụng một
cách rộng rãi. Tuy nhiên, nó ra đời chính xác vào năm nào, ở thời đại nào vẫn
còn là câu hỏi bỏ ngỏ, cần nhiều hơn nữa những nghiên cứu sâu sắc và tâm huyết
không chỉ của các nhà nghiên cứu địa phƣơng mà là của học giả cả nƣớc.Sự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 13
1.3 Về sự ra đời và quá trình phát triển của văn học viết Tày
Sự xuất hiện của chữ Nôm Tày là một thành tựu lớn, đặc biệt đó lại là
sáng tạo của một cộng đồng tộc ngƣời thiểu số. Nó thể hiện ý thức, khát vọng
của những thế hệ trí thức bản địa, mong muốn lƣu giữ, phát triển nền văn hóa,
văn học của dân tộc mình. Những khát vọng nhƣ vậy đã làm kho tàng văn hóa
của ngƣời Tày giàu có hơn, văn minh hơn và có thể nói không quá rằng đó là
những khát vọng “vĩ đại”. Bởi nhờ có chữ Nôm Tày mà những huyền tích,
chuyện cũ, những phƣơng pháp chữa bệnh…đƣợc ghi chép lại cẩn thận, và
đáng kể hơn là những ngƣời trí thức Tày vừa bảo tồn vừa sáng tác ra một số
lƣợng tƣơng đối lớn các tác phẩm văn học đặc biệt là truyện thơ Nôm.
Dƣới đây là thống kê của nhà nghiên cứu Cung Văn Lƣợc về các văn
bản ngôn ngữ - văn học đƣợc ghi bằng chữ Nôm Tày đƣợc lƣu trữ tại thƣ viện
Hán – Nôm (Bên cạnh đó còn rất nhiều văn bản ghi chép về các chủ đề: địa
lý, lịch sử, văn bản y tế, phong tục, lịch và các vấn đề liên quan đến lịch).
1. Thổ ngữ (Viết về lời ăn tiếng nói cổ của ngƣời Tày).
2. Thành ngữ và tục ngữ (Viết về các lời thành ngữ và tục ngữ Tày – Nùng).
3. Bế Văn Phủng thi (Thơ Bế văn Phủng).
4. Nhân Lăng cổ truyện (Truyện cổ Nhân Lăng).
5. Kim Quế cổ truyện (Truyện cổ Kim Quế).
6. Đính Quân cổ truyện (Truyện cổ Đính Quân).
7. Đính Chi cổ truyện (Truyện cổ Đính Chi).
8. Đổng Vĩnh cổ truyện (Truyện cổ Đổng Vĩnh).
9. Sam Péo – Anh Tài (Truyện Sơn Bá, Anh Đài).
10. Lƣu Đài – Hán Xuân (Truyện Lƣu Đài – Hán Xuân).
11. Tần Chu – Quyển Vƣơng (Truyện Trần Chu, Quyển Vƣơng).
12. Nam Kim – Thị Đan (Truyện Nam Kim, Thị Đan).
13. Quảng Tân – Ngọc Lƣơng (Truyện Quảng Tân, Ngọc Lƣơng).
14. Hán Bình – Thị Xuân (Truyện Hán Bình, Thị Xuân).

Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 14
Trên đây là 14 văn bản trong số 43 văn bản về ngôn ngữ - văn học đƣợc
viết dƣới dạng văn bản Nôm Tày đƣợc tác giả thống kê. Chúng tui đề cập tới
những văn bản trên, qua đó muốn bàn tới một vấn đề: Văn học viết (hay văn
học thành văn) của ngƣời Tày chính thức xuất hiện từ bao giờ?
Đa số các học giả đều đồng tình chữ Nôm Tày vào thế kỷ XVII đã trở
nên hoàn thiện bởi nó xuất hiện trong Lượn tứ quý của Nông Quỳnh Vân,
Lượn tam nguyên của Bế Văn Phủng, tƣơng truyền là những ông tổ làn điệu
Then của ngƣời Tày. Về huyền thoại tổ nghề Mo – Then, Giáo sƣ Trần Quốc
Vƣợng đã luận giải thế này: “Khi nhà Mạc ở Cao Bằng mòn mỏi đi vì các
cuộc đánh phá của nhà Lê – Trịnh và mất ngôi hẳn từ 1677 (tàn dƣ quân Mạc
vẫn còn đến quãng 1744) thì các ca công, nhạc công của triều đình tản mát
vào trong dân và Tày hóa. Trƣớc và sau đó, do có hiểu biết về âm nhạc cung
đình Lê – Mạc, họ dạy cho dân, cho các ông Mo – Then nhiều bài hát, bản
nhạc. Những làn điệu đó đã đƣợc Tày hóa và dân gian hóa thành các bài Bụt,
bài Giàng. Song ngƣời Pháp sƣ Tày vẫn nhớ ơn họ và thờ họ làm tổ sƣ với
các tên Quản nhạc, Lý Quỳnh Văn (Vân)’’. [ 16, tr. 60 – 61].
Lượn Tam Nguyên của Bế Văn Phủng (hay còn đƣợc dân gian gọi là Tƣ
Thiên Quản Nhạc) dài 760 câu thơ. Ở đó bộc lộ những tâm trạng hết sức
thành thực của ông Tƣ Thiên về một xã hội cơ cực, đầy rẫy yếu hèn và hơn
hết là ông tự trách mình đã sinh nhầm thời thế:
“Tự trách thân sinh thời lạc thế
Trách sao mà tạo hóa xoay vần
Hiền sĩ nghĩ thƣơng thân sầu tủi
Ta sống thời trọng võ khinh văn
Xếp sách vở thơ văn nghiên bút…”
Sở dĩ ông oán trách cuộc đời là vì thời đại loạn lạc, rối ren:
“Sinh gặp thời nƣớc đục sóng cồn
Trên trời thì lòng ngƣời không thuận
Dƣới đất thì địa lợi không cònSự vận động của văn học viết Tày từ truyện thơ Nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu
Hoàng Thị Lựu 15
Gặp thời loạn chim chuột khoe khoang
An phận ếch thập thò trƣớc lỗ
Thân quan tƣ ta khó tranh đua
Ở ẩn chốn thảo lƣ cao gốc”
Còn lòng ngƣời thì nham hiểm khó ngờ, một xã hội đổi trắng thay đen,
tranh tối tranh sáng:
“Lòng ngƣời đổi nhƣ gió nhƣ mây
Thói kiêu khinh coi tiền trên hết
Có tiền thành kẻ biết ngƣời khôn
Giàu có ngu nhƣ ếch thành khôn
Ngƣời cùng kiệt khôn tày rồng bảo dại
Đã cùng kiệt thì mọi nỗi xấu xa
Thế gian lòng sai ngoa thiên lệch”
Trong một xã hội mà “vong ân bội đức” là cách hành xử chiếm ƣu thế
thì Bế Văn Phủng chọn con đƣờng ẩn cƣ để giữ gìn khí tiết thanh tao nhƣ
những nhà nho ẩn sĩ ngƣời Việt:
“Thong dong ẩn ở nơi đèn sách
KẾT LUẬN
Tộc ngƣời Tày đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời và có một phong tục,
tập quán hết sức phong phú. Văn học dân gian Tày trở nên đa dạng vì đƣợc bắt
nguồn từ một cái nôi nhƣ vậy là điều hoàn toàn dễ hiểu. Nhƣng sự ra đời của chữ
Nôm Tày và sau đó là sự ra đời của văn học viết Tày mới là điều đáng lƣu tâm
hơn vì nó khẳng định một điều rằng: ngƣời Tày có ý thức tự giác dân tộc rất lớn
và rất sớm. Nó chứng tỏ sự cố gắng phát triển về văn hóa, phát triển về học thuật
của các lớp thế hệ ngƣời Tày trên con đƣờng giao lƣu và hòa nhập với các tộc
ngƣời khác hùng mạnh hơn, giàu có hơn, văn minh hơn.
Cũng nhƣ các tộc ngƣời khác, ngƣời Tày từ cổ chí kim cũng ƣơm
trồng, nuôi dƣỡng và không ngừng phát triển một không gian văn hóa, văn
học đa dạng và có chiều sâu. Tất nhiên kho tàng văn học của ngƣời Tày nhỏ
hơn rất nhiều so với sự đồ sộ, muôn tầng nhiều vẻ của nền văn học Việt,
nhƣng những thành tựu về văn học mà một tộc ngƣời thiểu số đóng góp cho
nền văn học nƣớc nhà cũng đã tạo ra một dấu ấn rất đáng nghiên cứu.
Ngƣời Tày có một kho tàng truyện thơ Nôm khá đồ sộ (nếu tính trên số
dân). Qua truyện thơ Nôm, ngƣời đọc có thể hình dung về xã hội Tày thuở xƣa
một cách chân thực nhất. Truyện thơ Nôm cũng cung cấp những góc nhìn về
nhân sinh quan, về thế giới quan của tộc ngƣời Tày. Có thể khẳng định rằng đó
chính là nơi lƣu giữ văn hóa, phong tục tập quán của ngƣời Tày bằng thơ.
Từ khi văn học thành văn Tày xuất hiện nó liên tục đƣợc khẳng định
bằng những tác phẩm truyện thơ nôm ngày càng đƣợc hoàn thiện về chất
lƣợng. Trong tiến trình phát triển, dòng văn học này không bị đứt quãng mà
tạo thành một dòng chảy liên tục nối liền trung – cận – hiện đại và ở mỗi giai
đoạn đều có những tác phẩm tiêu biểu.
Từ truyện thơ nôm khuyết danh đến thơ Hoàng Đức Hậu, chúng ta nhìn
nhận sâu sắc hơn sự liền mạch của văn học thành văn Tày. Trong thơ Hoàng
Đức Hậu, hiện thực là gam màu chủ đạo và đặc biệt nó là sáng tác cá nhân,
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top