loi_lam

New Member

Download miễn phí Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước





Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình vô cùng khó khăn phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, hơn nữa lại không có con đường chung nào cho tất cả các nước tiến hành CPH doanh nghiệp nhà nước. Những thành công và những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta thu được đã khẳng định CPh là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Qua 8 năm kể từ ngày thí điểm CPH, đã có gần 500 DNNN chuyển thành Công ty cổ phần. Cùng với việc thiết lập được một hệ thống quản lý mới chúng ta đã có thêm những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập của đất nước. Niềm tin của dân vỡi Đảng được củng cố một bước thể hiện ở chỗ: chúng ta đã huy động được nguồn vốn khá lớn trong dân dùng để đầu tư phát triển sản xuất, giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước khi mà liên tục phải bù lỗ cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Cơ chế mới được hình thành cũng là lúc ta dần xoá bỏ được những thói quen trong cơ chế cũ, tạo ra con người mới năng động, sáng tạo hứa hẹn một tương lai tươi sáng của đất nước sau này.

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ự nghiên cứu và sửa đổi nội dung mục tiêu cổ phần hoá cho phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước và xu thế biến đổi chung của thị trường. Theo nghị định 44 CP ngày 29/6/1998 thì mục tiêu cổ phần hoá được rút gọn từ ba mục tiêu xuống còn hai nhưng nội dung chính vẫn được giữ nguyên. Cụ thể:
Mục tiêu 1: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
Mục tiêu 2: Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi cách quản lý tạo động lực thúc đẩy cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Về nội dung, mục tiêu cổ phần hoá DNNN theo nghị định trên vẫn quán triệt tư tưởng về cổ phần hoá là nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó là phát huy quyền làm chủ của người lao động. Hai mục tiêu cổ phần hoá lần này được đưa ra sau một thời gian thử nghiệm và tiến hành, được đúc rút từ kinh nghiệm thực tế. Do vậy, nó mang tính xác thực hơn so với ba mục tiêu ở quyết định 202/CT, đồng thời việc thực hiện hai mục tiêu này sẽ thúc đẩy và kéo theo các mục tiêu khác được thực hiện như:
+ Giảm bớt các DNNN để từ đó giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
+ Việc đa dạng quyền sở hữu DNNN sẽ hình thành sự liên kết chặt chẽ giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác do đó tạo ra sức mạnh và động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới. Đây là mục tiêu dài hạn cho nền kinh tế nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng.
+ Việc huy động vốn của CTCP sẽ là sợi dây liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có quyền lợi chung thông qua sự đồng sở hữu cổ phần trong một doanh nghiệp.
1.2.3. Các hình thức cổ phần hoá DNNN
Cổ phần hoá DNNN được diễn ra ở hầu hết khắp các nước trên thế giới với những hình thức đa dạng và phong phú. Tuỳ vào mục tiêu cổ phần hoá của từng nước mà có những cách lựa chọn các hình thức cổ phần hoá khác nhau. Xu thế cổ phần hoá DNNN trên thế giới đều thực hiện theo các hình thức sau:
- Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo qui định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
- Tách một bộ phận của DNNN có đủ điều kiện để cổ phần hoá.
- Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước để chuyển thành CTCP
- Bán giá trị hiện có của DNNN mà Nhà nước cần giữ 100% vốn cho các DNNN khác để hình thành CTCP hay còn gọi là công ty cổ phần hoá DNNN.
Tại Việt Nam, theo quyết định 44CP ra ngày 29/06/1998 thì cổ phần hoá DNNN được tiến hành dưới các hình thức sau:
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
- Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước có tại doanh nghiệp
- Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá.
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành CTCP.
Như vậy, các hình thức cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam đã được bổ sung phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc áp những hình thức cổ phần hoá DNNN theo qui định tại nghị định 44CP vào nước ta là tương đối phù hợp và có hiệu quả.
Chương II
Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua
2.1. Cổ phần hoá ở Việt Nam qua các giai đoạn
2.1.1. Giai đoạn I (Từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996) - Những bước thử nghiệm đầu tiên
- Ngày 08/06/1992, chủ tịch HĐBT đã ra quyết định 202/CT cho phép lựa chọn và triển khai thí điểm cổ phần hoá ở một số DNNN. Mốc quan trọng này mở ra một hướng đi mới cho việc cải cách DNNN ở Việt Nam.
- Ngày 04/03/1993, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN.
+ Về mục tiêu của giai đoạn này là thí điểm cổ phần hoá để từ đó rút ra kinh nghiệm và mở rộng việc cổ phần hoá sau này.
+ Về đối tượng cổ phần hoá ở giai đoạn này là các DNNN kinh doanh trong các nghành thông dụng, không có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân (như dịch vụ và công nghiệp).
Trong giai đoạn này, Nhà nước áp dụng hình thức chuyển một phần sở hữu Nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân. Sau khi cổ phần hoá, DNNN chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Đối với công nhân viên chức trong doanh nghiệp, người lao động được mua cổ phiếu trả chậm với thời gian không quá 12 tháng.
ở giai đoạn thí điểm này, các bộ, nghành địa phương đã hướng dẫn DNNN đăng kí thực hiện cổ phần hoá. Trên cơ sở số lượng DNNN dăng kí, chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) đã ra quyết định số 203/CT thí điểm chọn 7 DNNN do HĐBT chỉ đạo trực tiếp đó là:
1.Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ Công nghiệp)
2.Nhà máy diêm Thống Nhất (Bộ Công nghiệp)
3.Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Công nghiệp)
4.Xí nghiệp chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ Nông nghiệp)
5.Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại)
6.Xí nghiệp sản xuất bao bì (Thành phố Hà Nội)
7.Xí nghiệp dệt da may Legamex (Thành phố Hồ Chí Minh)
Tuy nhiên, sau một thời gian làm thử 7 doanh nghiệp này đều xin rút hay không có điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Vì vậy, thời gian thí điểm kéo dài và kết quả rất hạn chế. Trong 4 năm mới thực hiện cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp, bao gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Tất cả các doanh nghiệp cổ phần đều có quy mô nhỏ và có lợi thế nhất định trong hoạt động kinh doanh. Trong giai đoạn này, Việt Nam chưa bán cổ phần cho thể nhân hay pháp nhân nước ngoài.
Bảng 1 : Các DNNN đã cổ phần hoá tính đến thời điểm 31/12/1995
Ngày
Tổng
Cơ cấu vốn (%)
TT
Tên DN
CPH
số vốn
(triệu đồng)
NN
CNVC trong DN
Cổ đông ngoài
1
Đại lý Liên hiệp vận chuyển
1/7/93
6.200
18
33,1
48,9
2
Cơ điện lạnh TP HCM
1/10/93
16.000
30
50
20
3
Giầy Hiệp An
1/10/94
6.769
30
50
20
4
Chế biến hàng XK Long An
1/7/95
3.540
30,2
48,6
21,2
5
C/ty chế biến thức ăn gia súc
1/7/95
7.912
30
50
20
Nguồn : Ban chỉ đạo trung ương về đổi mới doanh nghiệp
* Nhận xét:
+ Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hoá lần này có số vốn ít, qui mô nhỏ. Tổng số vốn cao nhất là 16 tỷ đồng (công ty cơ điện lạnh Thành phố HCM) và thấp nhất là 3,5 tỷ (công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An).
+ Nhà nước nắm giữ 28,25% (tính bình quân) trong tổng số vốn điều lệ. Như vậy, Nhà nước không nắm mức cổ phần chi phối. Tỉ lệ vốn nhà nước trong các công ty cao nhất chỉ ở mức 30,2%, còn lại hầu như các cổ phiếu do cổ đông trong công ty nắm giữ. Tỉ lệ vốn do các cổ đông ngoài công ty đóng góp rất nhỏ, tính bình quân chỉ chiếm16,37%,...
Tóm lại, từ khi có chủ trương cổ phần hoá DNNN vào năm 1987 thì phải đến 6 năm sau (tháng 7/1993), nhà ...

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top