Rylan

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH 4
1.1. Một số khái niệm cơ bản 4
1.1.1. Khái niệm gia đình và thành viên gia đình 4
1.1.2. Khái niệm bạo lực và bạo lực gia đình 5
1.2. Một số yếu tố tác động đến bạo lực gia đình 7
1.2.1. Phong tục, tập quán 7
1.2.2. Tâm lý 8
1.2.3. Điều kiện kinh tế xã hội 9
1.2.4. Định kiến giới 10
1.2.5. Trình độ dân trí 11
1.3. Hậu quả của bạo lực gia đình đối với gia đình và xã hội. Ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình 11
1.3.1. Hậu quả của bạo lực gia đình đối với gia đình và xã hội 11
1.3.2. Ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình 13
1.4. Pháp luật một số quốc gia đối với vấn đề bạo lực gia đình 14
1.4.1. Phạm vi điều chỉnh 15
1.4.2. Phòng ngừa bạo lực gia đình 17
1.4.3. Thủ tục xác định và báo cáo về những trường hợp bạo lực gia đình 19
1.4.4. Về các quyết định bảo vệ nạn nhân 20
CHƯƠNG II 22
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 22
2.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình 22
2.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể của bạo lực gia đình 25
2.2.1. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân 25
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình 27
2.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình 30
2.3.1. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình 30
2.3.2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác 34
2.4. Các biện pháp cơ bản ngăn chặn hành vi bạo lực và bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình 35
2.4.1. Buộc chấm dứt hành vi bạo lực và cấp cứu nạn nhân 35
2.4.2. Cấm tiếp xúc 38
2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 40
2.5.1. Xử lý kỷ luật 40
2.5.2. Xử lý hành chính 41
2.5.3. Xử lý theo pháp luật dân sự 43
2.5.4. Xử lý theo pháp luật hình sự 46
CHƯƠNG III 49
THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁP LÝ NHẰM NGĂN CHẶN CÓ HIỆU QUẢ HÀNH VI BẠO LỰC TRÊN THỰC TẾ 49
3.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam những năm gần đây 49
3.1.1. Thực trạng bạo lực giữa các thành viên trong gia đình 49
3.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trong thời gian qua 52
3.2. Một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên thực tế 55
3.2.1. Làm rõ một số khái niệm quan trọng trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 55
3.2.2. Hoàn thiện một số quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 57
KẾT LUẬN 63

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, phòng, chống bạo lực giới đang là một trong những mục tiêu của thiên niên kỷ. Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên bố: "Bạo lực đối với phụ nữ là không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ được khoan dung, tha thứ..." [16]
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp liên quan như: Hiến pháp năm 1992; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính; Pháp lệnh về Người cao tuổi; Pháp lệnh về Người tàn tật.. và đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan thì các quy phạm pháp luật này chưa thực sự đi vào cuộc sống, sự quan tâm và hiểu biết về lĩnh vực này chưa đi vào chiều sâu, tình trạng bạo lực trong gia đình chưa có nhiều thay đổi. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành và những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng những quy định này trên thực tế, từ đó tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật với vấn đề bạo lực gia đình hiện nay là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời, sự quan tâm của các học giả tới vấn đề này thường chỉ dừng ở những nghiên cứu về mặt xã hội, những nghiên cứu về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thường lồng trong các nghiên cứu về hôn nhân gia đình. Từ khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời, những nghiên cứu pháp lý về vấn đề này đã xuất hiện trên nhiều báo, tạp chí bởi tính thời sự cấp thiết của nó. Tuy nhiên, những nghiên cứu có hệ thống, có trọng tâm về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình chưa nhiều. Hiện tại có thể kể tới Luận văn thạc sĩ luật học "Luật phòng chống bạo lực gia đình với việc hạn chế ly hôn do bạo lực gia đình" của tác giả Nguyễn Thị Lệ (Hà Nội, 2010); Khóa luận tốt nghiệp "Tìm hiểu hành vi bạo lực gia đình - nguyên nhân, giải pháp hạn chế" của tác giả Nguyễn Thị Bình (Hà Nội, 2010). Những công trình này đã nghiên cứu một số khía cạnh cụ thể của việc phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và tổng quát về các quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật với vấn đề bạo lực gia đình trong thời gian tới. Chính vì vậy, tui chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Tính mới của đề tài
Đề tài “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” không đi vào nghiên cứu một nội dung cụ thể nào mà chỉ đánh giá chung về các quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam, tham khảo quy định của một số nước trên thế giới về vấn đề này. Từ đó, xem xét thực trạng bạo lực giữa các thành viên trong gia đình và thực trạng áp dụng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam trong thời gian qua để đưa ra kiến nghị về một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên thực tế.


4. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu các quy định của pháp luật về bạo lực gia đình hiện nay, xem xét thực trạng về bạo lực gia đình để tìm ra một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, có xem xét tới các quy định có liên quan trong các văn bản pháp luật khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được tác giả sử dụng khi nghiên cứu đề tài bao gồm: quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp. so sánh…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về bạo lực gia đình
Chương II: Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Chương III: Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam trong những năm gần đây và một số giải pháp pháp lý nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên thực tế.







CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm gia đình và thành viên gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa... Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rể... Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hay có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong một sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà…
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia thành rất nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống; gia đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ…
Xuất phát từ những quan niệm khác nhau về gia đình dẫn tới những quan niệm khác nhau về thành viên gia đình.
Thành viên gia đình có thể được hiểu là những người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; hay cũng có quan điểm cho rằng thành viên gia đình là những người cùng được ghi tên trong một sổ hộ khẩu; hay là những người cùng sống trong một gia đình…
Thành viên gia đình hiểu theo nghĩa truyền thống là tất cả những người trong cùng dòng họ, trong một đại gia đình từ cụ, kỵ, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt... (bao gồm cả con dâu, con rể, cháu dâu, cháu rể...)
Thành viên gia đình hiểu theo nghĩa hiện đại là những người sống trong cùng một gia đình, có đời sống chung về mặt vật chất và tinh thần như cha mẹ và con cái, vợ và chồng, những người khác sống cùng như người giúp việc, giữa những người đã từng là con dâu với cha mẹ chồng, đã từng là con rể với cha mẹ vợ, giữa những người sống chung với nhau như vợ chồng. Những người này có một khoảng thời gian sống chung với nhau ổn định, có sự quan tâm chia sẻ với nhau những công việc của gia đình và xã hội, từ đó hình thành nên mối liên hệ đặc biệt về tâm lý, tình cảm, tạo nên cách ứng xử giữa họ với nhau. Theo chúng tôi, đây là quan niệm đúng đắn về thành viên gia đình, có thể áp dụng trong các quan hệ pháp lý bởi vì sự điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cần xuất phát từ mối quan hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau giữa những cá nhân là thành viên gia đình chứ không đơn thuần xuất phát từ những quan hệ như hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.

1.1.2. Khái niệm bạo lực và bạo lực gia đình
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hay lật đổ" [12]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một cách hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em…
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hay đe dọa gây tổn hại… với các thành viên khác trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói một cách dễ hiểu hơn, đó là việc “các thành viên gia đình vận dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình” [21, tr. 27]. Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi như là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với rất nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể phân chia bạo lực gia đình thành các hình thức chủ yếu sau:
- Bạo lực thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình (quyền tự do lao động, tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản…)
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con.
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định các hành vi bạo lực bao gồm:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hay hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hay hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hay gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hay cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hay có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hay tài sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

1.2. Một số yếu tố tác động đến bạo lực gia đình
1.2.1. Phong tục, tập quán
Bên cạnh đó, quy định về một trong những điều kiện áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc chưa thật hợp lý: Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc, nơi ở này bao gồm nhà của người thân, bạn bè, địa chỉ tin cậy hay nơi ở khác mà nạn nhân bạo lực gia đình tự nguyện chuyển đến ở. Rõ ràng nạn nhân của bạo lực gia đình tiếp tục phải chịu thiệt thòi: họ bị làm tổn thương, và để tránh những tổn thương này họ bị buộc phải rời khỏi nhà của mình. Như vậy, những người khác nhìn vào có thể cho rằng đó là “hình phạt” cho những người không cam chịu mà lên tiếng đòi công bằng cho mình. Trong khi đó, kẻ có hành vi bạo hành lại đương nhiên được ở nhà của mình, việc nạn nhân không ở đó thậm chí có thể là mong muốn của những người này, nên họ có thể hoàn toàn không quan tâm. Quy định này có lẽ dựa trên quy định về tự do cư trú của cá nhân mà quên rằng nạn nhân cũng bắt buộc phải chọn nơi ở khác do những hành vi trái pháp luật của người có hành vi bạo lực; và những người thực hiện hành vi này hoàn toàn có thể bị tước bỏ quyền tự do lựa chọn nơi cư trú vì bản thân họ đã vi phạm pháp luật.
Do đó, khi áp dụng biện pháp này, theo chúng tui trong một số trường hợp không cần đến sự yêu cầu hay cho phép của nạn nhân (trường hợp hành vi bạo lực gây tổn hại hết sức nghiêm trọng tới sức khỏe, danh dự của nạn nhân; hành vi lặp lại nhiều lần; người có hành vi đã được giáo dục mà tiếp tục vi phạm…). Đồng thời nếu thực hiện cấm tiếp xúc thì người thực hiện hành vi có thể phải rời khỏi nơi cư trú (nếu nạn nhân không tìm được nơi ở khác thích hợp) và đảm bảo quyền trông nom, chăm sóc gia đình, con cái của nạn nhân. Trong trường hợp nạn nhân bị lệ thuộc hoàn toàn vào kinh tế thì khi cách ly có thể xem xét việc yêu cầu cấp dưỡng cho nạn nhân như quy định của một số nước và không trái với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
b) Quy định về hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
Nghị định 110 đã đưa ra những chế tài cần thiết đối với người thực hiện hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, quy định về hình thức phạt tiền của Nghị định này còn chưa thực sự hợp lý, bởi mức xử phạt nhìn chung là thấp, trong một số trường hợp là rất bất hợp lý như với hành vi thường xuyên theo dõi thành viên gia đình vì lý do ghen tuông gây tổn hại đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của thành viên đó hay hành vi cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hay bằng thủ đoạn khác thì mức phạt chỉ từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Mức phạt như vậy là quá thấp, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi. Ngay cả với những mức phạt cao hơn thì đối với những người có điều kiện kinh tế thì phạt tiền cũng không có ý nghĩa giáo dục với họ. Ngược lại, trong nhiều trường hợp biện pháp này có thể trở thành “con dao hai lưỡi”, khiến tình trạng bạo lực nghiêm trọng hơn: người có hành vi bạo lực vì phải nộp phạt mà trút giận lên nạn nhân bằng những hành vi bạo lực kinh khủng hơn, tinh vi hơn.
Ngoài ra, có những trường hợp người phải nộp phạt không có thu nhập thì việc phạt tiền với họ dường như không có nhiều ý nghĩa. Trường hợp người chồng nát rượu, không việc làm mà đánh đạp vợ con thì ai là người phải nộp phạt? Pháp luật có quy định về cưỡng chế kê biên thi hành án, nhưng tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, nên nếu áp dụng chế tài này thì cơ quan thi hành án cũng gặp khó khăn mà quyền lợi về tài sản của người vợ cũng bị ảnh hưởng. Do đó, rất nhiều trường hợp nạn nhân phải đi nộp phạt thay người có hành vi vi phạm, và như vậy thì không thể giáo dục người vi phạm mà chỉ làm nạn nhân không muốn tố cáo lần sau. Tương tự, với trường hợp con chưa thành niên từ 16 tới 18 tuổi bị xử phạt vì hành vi bạo lực với bố mẹ, nếu họ không có tiền nộp phạt thì nạn nhân – bố mẹ họ phải nộp phạt thay.
Xuất phát từ những bất cập nêu trên, chúng tui cho rằng có thể bỏ chế tài phạt tiền, thay vào đó là chế tài lao động công ích trong xử lý vi phạm hành chính trong phòng, chống bạo lực gia đình. Biện pháp này có tính khả thi cao hơn vì nó có ý nghĩa giáo dục tích cực với người có hành vi bạo lực, đồng thời không ảnh hưởng tới quyền lợi của nạn nhân. Hơn thế nữa, biện pháp này còn có giáo dục tích cực đối với những cá nhân khác: họ không muốn phải chịu hình thức xử phạt công khai, có nhiều người biết tới như vậy, nên sẽ cố gắng tránh bằng cách không thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng biện pháp này còn khá mới ở Việt Nam, nên có thể quy định một cách mềm dẻo: chỉ áp dụng bắt buộc với người có hành vi tái phạm; tính thời gian lao động công ích tương đương với số tiền phạt; tiến hành lao động công ích trong các cơ sở kinh tế nhất định. Tuy nhiên, nếu đã bị áp dụng hình thức xử phạt này thì không được cho phép thay thế bằng phạt tiền để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
c) Quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Với những ví dụ đã nêu ở trên, có thể thấy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình còn rất mờ nhạt, mà nguyên nhân chính là do các cơ quan này chưa thực sự ý thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác này cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ đã được pháp luật quy định cho họ.
Trong khi đó, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cũng chưa có một quy định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này
Thực tiễn bạo lực gia đình ở Việt Nam cho thấy: việc thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình để nâng cao sự hiểu biết, từ đó thay đổi nhận thức về vấn đề là hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng dường như chưa được chú ý đúng mức. Các nhà làm luật đã mất nhiều công sức để xây dựng các quy định này nhưng lại không đề ra cơ chế cho việc thực thi trên thực tế, mà chỉ quy định chung chung trong Chương 4, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành Luật. Vì vậy, theo chúng tôi, cần quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Cụ thể: cần quy định việc tuyên truyền này như là một trách nhiệm thường xuyên của một cơ quan, tổ chức cụ thể ở từng địa phương, từng cơ sở (Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em; Ủy ban Vì sự tiến bộ phụ nữ; Hội phụ nữ; Tổ dân phố…).
Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình là một trong những hành vì bị cấm theo quy định tại Điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Những hành vi này của cơ quan, người có thẩm quyền chính là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng bạo lực gia đình không được cải thiện: người có hành vi bạo lực không bị xử lý càng hung hăng, đánh giá là mình đúng; nạn nhân càng sợ sệt, không dám phản ứng; những người xung quanh thấy thế càng có lý do để thờ ơ, không quan tâm, thậm chí có thể cho rằng mình cũng có thể làm như vậy. Ảnh hưởng của hành vi này là rất nghiêm trọng và nguy hiểm. Tuy nhiên, khi xem xét Nghị định 110 thì không thấy bất cứ một hình thức xử phạt nào cho những hành vi này, dù tất cả những hành vi bị cấm khác đều bị xử lý theo những mức độ khác nhau. Điều này là hoàn toàn vô lý và cần được sửa chữa. Do đó, chúng tui cho rằng cần quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình: hành vi vi phạm cần bị xử lý; nhưng sự thờ ơ, thiếu quan tâm, vô trách nhiệm cũng cần có những chế tài thích đáng.

KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, bạo lực gia đình có tác động tiêu cực tới sự phát triển của xã hội. Mặc dù vẫn diễn ra hàng ngày, hàng giờ và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng nhưng vấn đề này vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của cộng đồng xã hội. Luận văn "Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay" đã tìm hiểu về các khái niệm gia đình, thành viên gia đình, bạo lực và bạo lực gia đình; nghiên cứu về một số yếu tố tác động và hậu quả của bạo lực gia đình, ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình cũng như tìm hiểu pháp luật một số quốc gia về vấn đề này. Bên cạnh đó, từ những nghiên cứu về thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam những năm gần đây và thực trạng áp dụng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thời gian qua, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm ngăn chặn có hiệu quả hành vi bạo lực trên thực tế. Cụ thể
- Cần làm rõ một số khái niệm quan trọng trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: khái niệm thành viên gia đình, các hành vi cụ thể của từng loại bạo lực trong gia đình. Đây là những khái niệm cơ bản cần làm rõ để phục vụ quá trình áp dụng cũng như tuyên truyền pháp luật đạt hiệu quả.
- Hoàn thiện một số quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: cần quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về biện pháp cấm tiếp xúc; xem xét các quy định về phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình và đưa ra những điều chỉnh hợp lý; nâng cao vai trò của các cơ quan chức năng trong phòng, chống bạo lực gia đình.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top