iron_pigeon_vqs

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

.Tổng quan về mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia.
Ngày nay, khi quá trình toàn cầu hóa và khu vực diễn ra mạnh mẽ thì các quốc gia không còn là các ốc đảo riêng biệt mà gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ thông qua vô vàn các mối liên kết khác nhau từ kinh tế chính trị đến văn hóa giáo dục,…. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập mà không có quan hệ với các quốc gia khác. Trong mạng lưới liên kết này quyết định và hành động của một quốc gia, ngay cả khi chúng chỉ mang tính chất nội bộ cũng tạo ra các hậu quả trực tiếp hay gián tiếp đến quốc gia khác và cộng đồng quốc tế. Nói cách khác quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ là nhu cầu nội tại thiết thực của bản thân mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước, mà còn là trách nhiệm - nghĩa vụ của các quốc gia xét dưới góc độ pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật độc lập bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện bình đẳng đấu tranh thương lượng, luật quốc tế được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế riêng lẻ hay cưỡng chế tập thể hay thông qua dư luận tiến bộ thế giới.
Luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất định.
Giữa luật quốc tế và luật quốc gia có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế là vấn đề lí luận truyền thống của luật quốc tế nhưng vẫn đồng thời mang tính thời sự sâu sắc đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng hoàn thiện và phát triển pháp luật.
Luật quốc gia có ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự hình thành và phát triển của luật quốc tế. Bản chất của quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế mà các quốc gia tiến hành thông qua cách thỏa thuận chính là quá trình đưa ý chí quốc gia vào nội dung của luật quốc tế. Ngoài ra trong lịch sử hình thành và phát triển của luật quốc tế nhiều quy phạm của luật nhân đạo quốc tế, luật ngoại giao, lãnh sự hay nhiều nguyên tắc của luật quốc tế có nguồn gốc xuất phát từ quan điểm, quan niệm của luật quốc gia.
Luật quốc tế có tác động tích cực nhằm phát triển và hoàn thiện luật quốc gia. Tính chất tác động của luật quốc tế đối với luật quốc gia được đánh giá bằng thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế, tổ chức quốc tế của quốc gia, thể hiện ở những hoạt động cụ thể. Bên cạnh đó, luật quốc tế còn tác động đến luật quốc gia thông qua vai trò của hệ thống này đối với đời sống pháp lý tại mỗi quốc gia,phản ánh tương quan giữa hai hệ thống khi điều chỉnh những vấn đề thuộc lợi ích phát triển và hợp tác quốc tế của quốc gia.
Hiện nay, việc vận dụng lí luận khoa học pháp lí hiện đại về mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế vào thực tiển pháp lí của mỗi quốc gia không có sự đồng nhất về cách tiếp cận.
Ở Việt Nam, vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế thông qua giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế hiện đang có hiệu lực với Việt Nam và pháp luật Việt Nam cũng đang là vấn đề thời sự. Trong bối cảnh của công cuộc cải cách, mở cửa tại Việt Nam điều ước quốc tế trở thành công cụ pháp lý chủ yếu, điều chỉnh hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế toàn diện của Việt Nam với các quốc gia và tổ chức quốc tế.
Từ khi tiến hành đổi mới đến nay, trải qua hơn 20 năm, nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào các hoạt động kinh tế, văn hóa , chính trị quốc tế. Trong quá trình đó, chúng ta đã kí kết nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương. Đặc biệt, với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO ngày 07/11/2006, đã có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, gia nhập. Do vậy, trách nhiệm của chúng ta là phải làm sao đảm bảo để các điều ước quốc tế được thực thi một cách tốt nhất. Muốn vậy, trước hết cần tạo sự hài hòa giữa nội luật với luật pháp quốc tế, điều đó có nghĩa là ta phải làm rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai phạm trù pháp luật này. Đây là một trong những đề tài gây ra nhiều tranh luận nhất trong giới luật gia Việt Nam hiện nay. Những vấn đề thường được đặt ra đó là: 1) Luật quốc gia và luật quốc tế nằm trong cùng một hệ thống pháp luật hay đó là hai hệ thống pháp luật độc lập; 2) Vị trí của các điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt; 3) Vấn đề về chuyển hóa và thực thi điều ước quốc tế ở Việt Nam hiện nay…
II. Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
1. So sánh pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những quy tắc những quy phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt ( chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau ( trước tiên và chủ yếu giữa các quốc gia ) trong những trường hợp cần thiết luật quốc tế được đảm bảo thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hay tập thể do các chủ thể luật quốc tế thi hành hay bằng sức mạnh đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ thế giới.
Về đối tượng điều chỉnh pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ, còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế
Về chủ thể: chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân và nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ, còn chủ thể của pháp luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ và các chủ thể khác.
Về trình tự xậy dựng pháp luật: việc xây dựng pháp luật và trình tự xây dựng pháp luật của pháp luật quốc gia do cơ quan lập pháp thực hiện còn xây dựng và trình tự xây dựng pháp luật quốc tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các quy phạm thành văn, bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ quyền quốc gia của luật quốc tế.
Về biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật: quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù… làm biện pháp bảo đảm thi hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung mà chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế riêng lẻ hay tập thể.
Về phương pháp điều chỉnh các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia có nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau còn các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận.
2.Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế
Quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia và việc áp dụng điều ước quốc tế (chấp nhận hay chuyển hoá - nội luật hoá, các quy phạm điều ước quốc tế) thực chất phản ánh nội hàm của mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Vấn đề này luôn là mối quan tâm hàng đầu của lý luận và thực tiễn của khoa học pháp lý quốc tế cũng như pháp luật quốc gia từ trước đến nay, và đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức thiết đòi hỏi có sự luận giải vừa mang tính khoa học, vừa mang tính chính trị pháp lý, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia có phải là hai bộ phận cấu thành của cùng một hệ thống pháp luật thống nhất hay không, hay chúng là các hệ thống pháp luật khác nhau; các quy phạm điều ước quốc tế có vị trí như thế nào trong mối tương quan so sánh với các quy phạm pháp luật quốc gia?. Thứ hai, việc áp dụng điều ước quốc tế được thực thi bằng cách nào, nói một cách khác, điều ước quốc tế sau khi đã được hoàn tất các thủ tục ký kết, sẽ được áp dụng trực tiếp hay phải thông qua một thủ tục chuyển hóa bằng việc sửa đổi hay ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia?. Việc giải quyết một cách triệt để các vấn đề nêu trên sẽ đặt nền móng cho những luận cứ khoa học vô cùng quý báu, nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật quốc tế - đặc biệt là cơ chế thực thi các điều ước quốc tế theo nguyên tắc pacta sunt servanda; bảo vệ tối đa lợi ích dân tộc, bảo vệ triệt để chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá.
2.1. Quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
Sự tương quan giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, cũng như mối quan hệ và tác động qua lại giữa chúng là vấn đề trung tâm không những của khoa học pháp lý quốc tế, mà còn là đối tượng nghiên cứu lâu nay của khoa học luật hiến pháp, khoa học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, và vẫn là chủ đề của các cuộc tranh luận mà cho đến nay vẫn tiếp tục diễn ra trong nhiều lĩnh vực của khoa học pháp lý và chưa đến hồi kết thúc. Tiêu điểm của các cuộc tranh luận này đều tập trung vào việc giải quyết các vấn đề cơ bản như: pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là một hay là hai hệ thống pháp luật độc lập với nhau; nếu là hai thì hệ thống pháp luật nào có vị trí ưu tiên hơn; mối quan hệ giữa chúng được biểu hiện như thế nàov.v... Tuy nhiên, các quan điểm được đưa ra đều dựa trên hai học thuyết cơ bản: Chủ nghĩa nhất nguyên luận (Moniste) và Chủ nghĩa nhị nguyên luận (Dualiste). Vì vậy, hai học thuyết này có xuất phát điểm dường như trái ngược nhau. Học thuyết thứ nhất coi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống tách biệt hoàn toàn với nhau và chỉ có mối liên hệ với nhau ở một mức độ nhất định mà thôi (chủ nghĩa nhị nguyên); còn học thuyết thứ hai thì cho rằng, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận cấu thành của một hệ thống thống nhất (chủ nghĩa nhất nguyên).
2. 1.1. Chủ nghĩa nhất nguyên (hay còn gọi là chủ nghĩa nhất hệ - Moniste)
Đại diện cho học thuyết này là H.Kelsel, A.Verdross, A.Zorn, A.Lasson, B.Kunz. Học thuyết nhất nguyên quan niệm pháp luật là một hệ thống thống nhất. Cội nguồn sâu xa, xét về mặt lịch sử tư tưởng của học thuyết này, trước hết là dựa vào quan điểm của học thuyết pháp luật tự nhiên. Trên cơ sở quan niệm cho rằng bản chất tốt đẹp của con người là do năng lượng của thiên nhiên mang lại nên không thể được xác định khác nhau, do đó mọi xung đột được loại trừ.
Học thuyết nhất nguyên đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia tuỳ theo vị trí ưu tiên của chúng. Một khả năng coi pháp luật quốc tế có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc tế) và khả năng thứ hai là pháp luật của quốc gia có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc gia).
a. Ưu tiên pháp luật quốc gia
Học thuyết về sự ưu tiên của pháp luật quốc gia đặt chủ quyền của quốc gia lên trên hết. Pháp luật quốc tế chỉ có giá trị áp dụng, nếu một quốc gia tự công nhận là nó có giá trị hiệu lực đối với mình.
Trong mối tương quan với pháp luật của quốc gia, pháp luật quốc tế lúc này không còn giá trị độc lập nữa, mà chỉ được coi là một bộ phận cấu thành của pháp luật quốc gia, hay chỉ đơn thuần là “pháp luật của quốc gia trong quan hệ đối ngoại”. Học thuyết này dần dần bị bác bỏ trong khoa học pháp lý quốc tế hiện đại do có sự xuất hiện của các quan điểm trong pháp luật quốc tế về “chủ quyền có hạn chế” của quốc gia.
b. Ưu tiên pháp luật quốc tế
Chủ nghĩa nhất nguyên luận sau này dựa trên quan điểm cho rằng, Luật quốc tế có trước Luật quốc gia. Do đó, Luật quốc tế có vị trí ưu tiên hơn Luật quốc gia. Nếu căn cứ vào quan điểm này thì sẽ loại trừ khả năng xung đột giữa Luật quốc tế và Luật quốc gia (trong trường hợp pháp luật quốc gia trái với pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc gia sẽ bị coi là vô hiệu). Quan điểm này khó được chấp nhận vì mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật các nước và vi phạm thô bạo nguyên tắc chủ quyền quốc gia.
c. Chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà
Trên cơ sở các luận điểm của hai trường phái của chủ nghĩa nhất nguyên nói trên, đã xuất hiện chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà.Trường phái này đã được thừa nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý quốc tế. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế có vị trí cao hơn pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, học thuyết này công nhận có khả năng xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Và để giải quyết xung đột, các quốc gia, do chịu ảnh hưởng của sự ràng buộc của pháp luật quốc tế, cần huỷ bỏ các văn bản pháp luật của quốc gia mình trái với pháp luật quốc tế. Còn các văn bản pháp luật quốc gia tạm thời có vị trí thấp hơn so với pháp luật quốc tế .Vì thế, để thực hiện các cam kết quốc tế, quốc gia cần xây dựng các văn bản pháp luật trong nước cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc tế được ưu tiên áp dụng.
Cộng hoà Pháp là một trong những quốc gia điển hình công nhận chủ nghĩa nhất nguyên: Coi quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) có vị trí ưu thế hơn so với pháp luật quốc gia. Điều 55 Hiến pháp ngày 4/10/1958 của Cộng hoà Pháp tại Mục 6 về Điều ước quốc tế đã quy định: “Các điều ước quốc tế đã được phê chuẩn hay phê duyệt theo đúng quy định, có hiệu lực cao hơn luật, kể từ ngày công bố, với điều kiện điều ước quốc tế đó cũng được bên kia thực hiện”. Các Điều từ 52 đến 55 cũng đã phản ánh học thuyết nhất nguyên luận trong Hiến pháp của nước Pháp: pháp luật trong nước và pháp
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

nhamhiem

New Member

Download Tiểu luận Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế miễn phí





Việc thực hiện các điều ước quốc tế, trước hết phải xuất phát từ đặc điểm tình hình, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Do đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đề ra tiến trình, các biện pháp tổ chức thực hiện điều ước trong từng giai đoạn, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước, quản lý nguồn tài chính, kể cả những đóng góp, tài trợ quốc tế cho việc thực hiện điều ước quốc tế cũng phải được vạch ra một cách cụ thể.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

điều ước quốc tế đa phương. Ngày 10/10/2001 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế. Điều 26 Phần III Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt servanda như sau: “Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Đồng thời, Công ước Viên cũng đã xác định mối quan hệ giữa pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước quốc tế mà quốc gia đã cam kết, như sau: “Một bên kết ước không thể viện những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do để không thi hành một điều ước mà mình đã cam kết” (Điều 27 - Công ước Viên) . Việt Nam cũng đã ban hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Điều 24, Pháp lệnh Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 của Việt Nam cũng đã quy định nguyên tắc tuân thủ điều ước quốc tế (Pacta sunt servanda) như sau: “Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế mà mình đã ký kết là thành viên của Công ước Viên 1969, Việt Nam cam kết thực thi những “điều ước quốc tế được ký kết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và các quy định của Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế). Nhìn tổng thể vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam đều được ghi nhận bằng một công thức chung nhất đó là: trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hay tham gia có quy định khác với quy định của luật (Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định) này, thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế ( Khoản 2, Điều 795, Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 3, Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997; Khoản 2, Điều 7 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Khoản 2, Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000; Điều 5 Luật Hải quan năm 2001; Điều 5, Luật Thương mại năm 2005; Điều 8, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 v.v...). Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về giá trị ưu thế của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hay tham gia so với pháp luật trong nước và coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam, và về phương diện hiệu lực thi hành, điều ước quốc tế giữ vị trí thứ hai sau các quy định của hiến pháp và trước các quy định của bộ luật. Tuy vậy, việc xác định vị trí cụ thể của điều ước quốc tế trong pháp luật trong nước là chưa được quy định một cách rõ ràng.
Về việc (cách thức) áp dụng các quy phạm điều ước quốc tế, cho đến nay pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể. Vì vậy, việc quy định áp dụng điều ước quốc tế, trường hợp nào thì áp dụng trực tiếp, trường hợp nào phải thông qua thủ tục chuyển hoá bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, cần được quy định rõ và cần có cách tiếp cận linh hoạt, mềm dẻo. Nên chăng chỉ chuyển hoá những điều ước quốc tế có nội dung quá phức tạp hay chỉ quy định các nguyên tắc chung, còn các điều ước quốc tế có các nội dung quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết thì nên áp dụng trực tiếp mà không cần thông qua thủ tục chuyển hoá nhằm giảm bớt gánh nặng của công tác lập pháp, lập quy của Nhà nước vốn đã rất đồ sộ hiện nay.
Tóm lại, về vị trí của quy phạm điều ước quốc tế, cũng như cách áp dụng điều ước quốc tế cần được quy định rõ ràng và chặt chẽ trong đạo luật cao nhất của Nhà nước ta - Hiến pháp, và đạo luật chuyên ngành - Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Như vậy, một đòi hỏi cấp bách và không thể trì hoãn là cần tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 của Nhà nước ta. Làm được điều đó, là góp phần tạo lập một hành lang pháp lý cần thiết, làm bệ đỡ cho công cuộc hội nhập một cách sâu sắc và toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia trên cơ sở các nguyên tắc của pháp luật và tập quán quốc tế hiện đại.
4. Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế ở Việt Nam được quy định tại Luật số 41/2005/QH11 về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, Chủ tịch nước công bố ngày 24/6/2005 và Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (ban hành ngày 12/11/1996, được sửa đổi, bổ sung ngày 16/12/2002).
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là văn bản luật điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều ước quốc tế của Việt Nam. Liên quan đến mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế, Luật quy định về nguyên tắc, thứ bậc cũng như việc áp dụng điều ước quốc tế.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy chủ yếu điều chỉnh việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước, tuy nhiên cũng quy định việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải cân nhắc, tính toán đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hay gia nhập.
4.1. Vị trí của điều ước quốc tế
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hay gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế (Khoản 1). Do đó, các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hay tham gia sẽ được thực thi kể cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam còn chưa quy định đầy đủ.. Từ quy định này, có quan điểm cho rằng điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến pháp, trên các văn bản luật, pháp lệnh.
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005
Điều 6. Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước
1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hoàxã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề.
3. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định ...
like
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái – Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu hệ thống cân cơ nông vùng mặt và mối liên quan với thần kinh mặt Y dược 0
D Phân tích nội dung các quyết định truyền thông Marketing và mối quan hệ giữa nó với các quyết định Marketing khác trong Marketing Marketing 0
D MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY Văn hóa, Xã hội 0
D ĐẢNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền bắc xã hội chủ nghĩa giai đoạn từ 1965 đến 1968 Môn đại cương 0
D Mối quan hệ tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam Văn hóa, Xã hội 0
D Phân tích mối quan hệ giữa chiến lược kinh doanh và chiến lược quản trị nguồn nhân lực Luận văn Kinh tế 0
D Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong chủ nghĩa Mác- Lênin Môn đại cương 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top