Connlaoi

New Member
Luận văn tiếng Anh: Giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại tòa án : Luận văn ThS. Luật: 60 38 30
Nhà xuất bản: Khoa Luật
Ngày: 2009
Chủ đề: Luật dân sự
Pháp luật Việt Nam
Quyền tác giả
Tòa án dân sự
Miêu tả: 115 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Luật dân sự -- Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Làm rõ bản chất của tranh chấp dân sự về quyền tác giả và thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án (quyền tác giả được xem xét trong phạm vi luận văn này là quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học). Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao chất lượng giải quyết các tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án ở Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
DÂN SỰ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
5
1.1. Khái quát chung về quyền tác giả 5
1.2. Khái quát chung về tranh chấp dân sự về quyền tác giả và
giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả
10
1.2.1. Khái quát chung về tranh chấp dân sự về quyền tác giả 10
1.2.2. Khái quát chung về giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả 13
1.3. Giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án theo
quy định của một số nước trên thế giới
19
1.3.1. Cộng hòa Liên bang Đức 19
1.3.2. Thái Lan 20
1.3.3. Nhật Bản 23
1.3.4. Hoa Kỳ 23
1.3.5. Anh 23
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định quyền tác giả
và giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả
24
Chương 2: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ VỀ QUYỀN TÁC
GIẢ TẠI TÒA ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
35
2.1. Thẩm quyền của Tòa án 35
2.1.1. Thẩm quyền của Tòa án theo loại việc 35
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2
2.1.2. Thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án các cấp 37
2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ 41
2.2. Quyền khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự về quyền tác giả 41
2.3. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự 44
2.3.1. Chứng minh chủ thể quyền 46
2.3.2. Chứng minh hành vi xâm phạm quyền và thiệt hại 46
2.4. Các biện pháp (chế tài) dân sự 49
2.4.1. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền tác giả 50
2.4.2. Buộc xin lỗi, cải chính công khai 52
2.4.3. Buộc thực hiện nghĩa vụ 53
2.4.4. Buộc bồi thường thiệt hại 53
2.4.5. Buộc tiêu hủy hay phân phối hay đưa vào sử dụng không
nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật
liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh
doanh hàng hóa xâm phạm quyền tác giả với điều kiện không
làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền
tác giả
54
2.4.6. Công nhận quyền tác giả 55
2.5 Bồi thường thiệt hại 56
2.5.1. Nguyên tắc xác định thiệt hại 57
2.5.2. Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại 61
2.6 Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 64
2.6.1. Điều kiện áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 65
2.6.2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời 66
2.6.3. Về nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời
68
2.6.5. Hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 70
Chương 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI TÒA ÁN VÀ MỘT SỐ GIẢI
723
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP DÂN SỰ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI TÒA ÁN Ở
VIỆT NAM
3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại
Tòa án
72
3.1.1. Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án tranh chấp dân sự về
quyền tác giả tại Tòa án
72
3.1.2. Một số dạng tranh chấp dân sự về quyền tác giả đã được giải
quyết tại Tòa án
77
3.1.3. Nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp dân sự về quyền tác giả
được giải quyết tại Tòa án còn hạn chế
92
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh
chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án ở Việt Nam
95
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết tranh chấp
dân sự về quyền tác giả tại Tòa án ở Việt Nam
100
3.3.1. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền tác giả 100
3.3.2. Nâng cao nhận thức và năng lực chuyên môn cho Thẩm phán
về quyền tác giả
101
3.3.3. Thành lập Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ 102
3.4. Cải tiến cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ thông tin phục vụ
công tác xét xử và nâng cao đời sống cho cán bộ tòa án
106
KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC 115
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sở hữu trí tuệ ngày càng có vai trò quan
trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Sở hữu trí tuệ (SHTT) trở thành
một trong những nội dung cơ bản của WTO, APEC, ASEAN... Hầu như mọi
quan hệ hợp tác quốc tế song phương và đa phương đều bao hàm nội dung về
SHTT. Cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam coi việc phát triển và
hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền SHTT là một trong các biện pháp nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hóa cũng như từng bước hội nhập với khu vực và cộng đồng quốc tế. Hệ
thống SHTT ở Việt Nam đã từng bước phát triển. Các quy phạm pháp luật về
SHTT liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Cơ chế bảo đảm thực thi
quyền SHTT cũng ngày càng có hiệu lực. Các chủ thể tham gia quan hệ về
SHTT ngày càng đông. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và đa dạng của các
quan hệ xã hội, các tranh chấp dân sự về quyền SHTT nói riêng (tranh chấp
dân sự nói chung) ngày càng tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp; đặc
biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa mới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) (Việt Nam trở thành thành viên của WTO vào ngày 20/7/2006).
Giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả (một loại tranh chấp dân
sự về quyền SHTT) tại Tòa án là cách bảo vệ quyền tác giả hữu hiệu
và phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới
đều quy định về thủ tục khởi kiện và các biện pháp chế tài dân sự mà Tòa án có
thể áp dụng để bảo vệ quyền tác giả. Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2005, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành thì khi quyền tác giả của một chủ thể bị xâm phạm, chủ
thể đó có quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho mình. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, các5
tranh chấp về quyền tác giả ngày càng nhiều và nghiêm trọng. Tuy nhiên, theo
số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và Tòa án nhân dân
(TAND) thành phố Hà Nội thì số các vụ án tranh chấp về quyền tác giả được
các Tòa án thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự còn rất hạn chế.
Hơn nữa, ngay cả trong số rất ít các vụ án tranh chấp về quyền tác giả đã được
giải quyết tại Tòa án thì cũng có không ít vụ án đã bị hủy nhiều lần để xét xử
lại theo thủ tục chung, gây thiệt hại cho các đương sự.
Vì lẽ trên, việc nghiên cứu đề tài "Giải quyết tranh chấp dân sự về
quyền tác giả tại Tòa án" là một vấn đề mang tính thời sự và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Tính đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về đề tài
giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả nói riêng (quyền SHTT nói
chung), chỉ có một vài công trình nghiên cứu về nội dung quyền SHTT, hoàn
thiện pháp luật về SHTT hay vấn đề bảo bộ quyền SHTT như: luận văn thạc
sĩ Luật học của Hoàng Minh Thái với đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay" (năm 2001); đề tài "Đổi mới và hoàn
thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ" của TS.LS Lê Xuân Thảo (năm 2005); luận
văn thạc sĩ Luật học của Bùi Thị Dung Huyền với đề tài: "Cơ sở lý luận và
thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa
án nhân dân Việt Nam hiện nay" (năm 2006). Bên cạnh đó, còn có một số tài
liệu hội thảo khoa học như: Hội thảo về "Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam" (mã số
QGTĐ.03.05) do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện... Các công trình này
chính là cơ sở khoa học để tác giả kế thừa và phát triển trong đề tài nghiên
cứu của mình.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với mong muốn tìm ra nguyên nhân, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nâng cao chất lượng giải quyết các tranh chấp dân sự về
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6
quyền tác giả tại Tòa án, đề tài "Giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác
giả tại Tòa án" giải quyết những vấn đề chủ yếu sau:
- Làm rõ bản chất của tranh chấp dân sự về quyền tác giả và thủ tục
giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án (quyền tác giả được
xem xét trong phạm vi luận văn này là quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học);
- Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại
Tòa án Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao chất lượng giải quyết các tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa
án ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận triết
học Mác - Lênin là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử, kết hợp với với việc sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như:
Phương pháp lịch sử, logíc, phân tích tổng hợp và so sánh.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về đề tài giải quyết
tranh chấp dân sự về quyền SHTT mà cụ thể là việc giải quyết tranh chấp dân
sự về quyền tác giả tại Toà án. Luận văn đã làm sáng tỏ bản chất và đặc thù
của tranh chấp dân sự về quyền tác giả, đưa ra những giải pháp mới về vấn đề
hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao tính hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:7
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp dân sự về quyền
tác giả.
Chương 2: Giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả
tại Tòa án và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
dân sự về quyền tác giả tại Tòa án ở Việt Nam.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi8
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
Trong những năm gần đây, thuật ngữ "quyền tác giả" (author’s right)
hay thuật ngữ "bản quyền" (copy right) xuất hiện ngày càng nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng và ngày càng quen thuộc với công chúng và
xã hội. Mặc dù "quyền tác giả" và "bản quyền" đều là khái niệm để chỉ các
quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nhưng thuật ngữ "quyền tác giả"
được sử dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa
(Civil Law) còn thuật ngữ "bản quyền" lại được sử dụng phổ biến ở các nước
theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (Common Law). Việc sử dụng thuật ngữ
"quyền tác giả" hay thuật ngữ "bản quyền" là do có sự khác nhau cơ bản về cơ
sở hình thành, gắn liền với sự khác nhau giữa hai hệ thống pháp luật Civil
Law và Common Law về việc giải quyết mối quan hệ giữa ba nhân vật: tác
giả - người truyền bá - công chúng. Các nước theo hệ thống pháp luật châu
Âu lục địa sử dụng thuật ngữ "quyền tác giả" xuất phát từ quan điểm gắn chặt
mối quan hệ giữa tác giả với tác phẩm, chú trọng đến việc bảo hộ quyền của
người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, đặc biệt là các quyền về tinh thần (quyền
nhân thân). Các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ sử dụng thuật ngữ
"bản quyền" xuất phát từ khía cạnh thương mại, nhấn mạnh đến quyền sao
chép, nhân bản tác phẩm, tức là chú trọng đến giá trị kinh tế của tác phẩm chứ
không phải nhân thân của tác giả, do đó quyền nhân thân của tác giả không
mấy được coi trọng trong pháp luật về quyền tác giả của các nước theo hệ
thống pháp luật này.
Là một nước theo hệ thống pháp luật châu Âu nên "quyền tác giả" là
thuật ngữ chính thức được sử dụng trong các văn bản pháp luật của Việt Nam.9
Khái niệm quyền tác giả:
Thuật ngữ "tác giả" có nguồn gốc Hán - Việt, trong đó "tác" có nghĩa
là "làm", cũng có nghĩa là "sáng tác tác phẩm"; "giả" có nghĩa là "kẻ, người",
cho nên "tác giả" có nghĩa là "người làm ra một tác phẩm, người tạo nên một
tác phẩm". Tác giả được hiểu là người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật
chất kỹ thuật để trực tiếp sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
hay tác phẩm phái sinh.
Theo quy định tại Điều 745 của BLDS năm 1995, "tác giả" là người
trực tiếp sáng tạo toàn bộ hay một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học. Người dịch tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả của
tác phẩm dịch đó; người phóng tác từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển
thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình khác là tác giả của tác phẩm
phóng tác, cải biên, chuyển thể đó; người biên soạn, chú giải, tuyển chọn tác
phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo là tác giả của tác phẩm
biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó cũng được công nhận là tác giả. Có thể nói,
khái niệm tác giả theo quy định của BLDS năm 1995 chưa có tính khái quát,
mới mang tính thống kê nhưng không đầy đủ. Khái niệm tác giả đã được hoàn
thiện hơn tại Điều 736 BLDS năm 2005; theo đó, người sáng tạo tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi chung là tác phẩm) là tác giả của
tác phẩm đó; trong trường hợp có hai người hay nhiều người cùng sáng tạo
ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả; người sáng tạo ra tác
phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm được dịch từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể,
biên soạn, chú giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó. Việc đưa
khái niệm tác giả vào BLDS năm 2005 là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Quyền tác giả là một trong những quyền con người được quy định
trong Tuyên ngôn chung về Nhân quyền và tại các thỏa ước quốc tế của Liên
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi10
Hợp Quốc, đồng thời quyền tác giả cũng là một quyền pháp lý rất quan trọng
nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật [42].
Tương tự như thuật ngữ "quyền sở hữu trí tuệ", không có một định
nghĩa cụ thể về "quyền tác giả" trong các điều ước quốc tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại khoản 2 Điều 4 Luật SHTT
thì: "quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình
sáng tạo ra hay sở hữu" [38].
Tính đặc thù của quyền tác giả:
Quyền tác giả khác với quyền sở hữu tài sản thông thường về đối
tượng sở hữu. Nếu như đối tượng của quyền sở hữu thông thường là các tài
sản vật chất hữu hình có thể cầm, nắm, chạm vào nó thì đối tượng của quyền
tác giả là là tài sản vô hình được hình thành từ lao động trí óc của con người.
Từ khác biệt về thuộc tính đối tượng giữa quyền tác giả với quyền sở hữu tài
sản thông thường dẫn đến sự khác biệt về nội dung chiếm giữ đối tượng của
quyền tác giả và quyền sở hữu tài sản thông thường. Nếu như đối với quyền
sở hữu tài sản thông thường thì quyền chiếm hữu được xem là tiền đề để thực
hiện quyền sử dụng và quyền định đoạt thì đối với quyền tác giả, do đặc tính
vô hình của quyền tác giả, vấn đề chiếm hữu đối tượng không được đặt ra.
Bởi lẽ, khi đầu tư công sức, thời gian, tiền bạc để nghiên cứu, sáng tạo ra một
tác phẩm, người sáng tạo luôn mong muốn sản phẩm của mình phải được đưa
vào khai thác, sử dụng mang lại lợi ích cho xã hội và cho chính tác giả. Như
vậy, yếu tố quan trọng nhất trong quyền tác giả không phải là quyền chiếm
hữu mà là việc xác định ai là người có quyền khai thác, sử dụng tác phẩm bởi
quyền khai thác, sử dụng tác phẩm trong đa số các trường hợp luôn gắn với
mục đích thương mại của việc sử dụng tác phẩm.
Quyền tác giả khác cũng khác với quyền sở hữu tài sản thông thường
về thời hạn bảo hộ:11
Một tài sản hữu hình sẽ thuộc về người chủ sở hữu của nó mãi mãi
nếu người đó không làm mất hay chuyển quyền sở hữu cho người khác nhưng
cũng như các quyền SHTT, quyền tác giả bị giới hạn về thời gian, chỉ được
bảo hộ trong một thời gian nhất định, được quy định cụ thể trong luật. Thời
hạn này được tính từ thời điểm tác phẩm đó được thể hiện dưới một hình thức
vật chất nhất định và được tiếp tục cho đến một thời điểm nào đó sau cái chết
của tác giả (50 năm). Quyền nhân thân của tác giả (trừ quyền công bố tác
phẩm hay cho người khác công bố tác phẩm - thực chất là quyền tài sản)
được bảo hộ vô thời hạn (khoản 1 Điều 27 Luật SHTT).
Pháp luật cũng quy định mọi trường hợp chuyển giao các quyền nhân
thân và các quyền tài sản đều không được vượt quá thời hạn bảo hộ mà pháp
luật đã quy định. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ quy định thời hạn
bảo hộ (nếu không được tính trên cơ sở đời người) không ít hơn 75 năm kể từ
khi tác phẩm được công bố hợp pháp hay nếu tác phẩm không được công bố
hợp pháp trong vòng 25 năm kể từ khi tác phẩm được tạo ra, thì thời hạn đó
không ít hơn 100 năm kể từ khi tác phẩm được tạo ra (Điều 4.4 Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ). Thời hạn này dài hơn các thời hạn được
quy định trong Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
(sau đây gọi tắt là Công ước Berne) mà Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền SHTT (sau đây gọi tắt là Hiệp định TRIPs) có dẫn
chiếu và các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác
giả.
Cùng nằm trong nhóm quyền SHTT nhưng quyền tác giả khác với quyền
sở hữu công nghiệp về điều kiện bảo hộ: việc bảo hộ quyền tác giả không phụ
thuộc vào việc tác phẩm được tạo ra đã được đăng ký hay chưa. Theo luật
pháp Hoa Kỳ, "các tác phẩm gốc của tác giả" có thể được bảo hộ bản quyền
nếu chúng được định hình trên một phương tiện biểu hiện hữu hình và chỉ có
các tác phẩm nguyên gốc mới được bảo hộ bản quyền. Khái niệm "nguyên
gốc" có nghĩa là tác giả đã có sự đóng góp công sức thực sự vào việc tạo ra
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi12
tác phẩm hơn là sự thay đổi một cách đơn giản hay còn gọi là một sự sao chép
đơn giản. Điều này có nghĩa là không ai có thể được sao chép nguyên văn một
truyện ngắn và phân phối chúng như là tác phẩm của bản thân tác giả nhưng
một người viết truyện được tự do lấy cốt truyện từ một truyện khác. Yêu cầu
để xác định bản quyền một tác phẩm nguyên gốc thấp hơn rất nhiều so với
yêu cầu của tiêu chuẩn tính mới và tính sáng tạo của patent. Pháp luật về bản
quyền tác giả của Úc quy định rằng quyền tác giả chỉ bảo hộ đối với hình thức
xác định mà trong đó ý tưởng và thông tin được biểu đạt. Tuy nhiên, họ cũng
phân biệt rõ ở đây có hai loại ý tưởng. Thứ nhất, pháp luật về quyền tác giả
không bảo hộ cho những ý tưởng đang nằm trong đầu tác giả, ví dụ khi một
nhà thơ có ý tưởng về một ý thơ nhưng ý tưởng này không được thể hiện trên
một phương tiện hữu hình nào đó như trên giấy, đọc thành lời thì ý tưởng đó
không được bảo hộ. Loại ý tưởng thứ hai là khi ý tưởng đó được thể hiện trên
một phương tiện cụ thể nào đó, có nghĩa là biểu đạt ý tưởng với một hình thức
hay hình dạng cụ thể nào đó thì trong những trường hợp này quyền tác giả
tồn tại trong những hình thức biểu đạt đó. Việc kiểm tra tính nguyên gốc của
tác phẩm thường có hai khía cạnh. Trước hết tác phẩm phải đúng là của tác
giả, điều đó được giải thích bằng việc tác phẩm do chính tác giả tạo ra một
cách độc lập, không phải sao chép từ các tác phẩm khác và thứ hai, tác phẩm
mới phải có tính sáng tạo.
Quyền tác giả phát sinh theo nguyên tắc bảo hộ đương nhiên (hay bảo
bộ tự động). Theo quy định của Công ước Berne: quyền tác giải phát sinh ngay
sau khi tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định,
không lệ thuộc vào bất kỳ thủ tục hay hình thức nào như đăng ký, nộp lưu
chiểu hay các thủ tục tương tự. Tuy pháp luật các nước đều có quy định về
việc đăng ký quyền tác giả, nhưng điều đó không có nghĩa chỉ có tác phẩm đã
được đăng ký mới được pháp luật bảo hộ. Việc đăng ký quyền tác giả được
tiến hành tương đối nhanh và ít tốn kém ở hầu hết các nước. Mặc dù quyền
tác giả được bảo hộ kể từ khi tác phẩm được xác định dưới một hình thức vật13
chất nhất định nhưng ở một số nước việc đăng ký quyền tác giả cũng mang lại
cho tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả một số lợi ích quan trọng khác. Tuy
nhiên, Hiệp định TRIPs đã yêu cầu loại bỏ quy định về cơ chế đăng ký quyền
tác giả như là một điều kiện tiên quyết đối với công dân nước ngoài trước khi
bắt đầu việc khiếu kiện nhằm ngăn chặn việc vi phạm quyền tác giả hay để
thu hồi phí tổn, như phí luật sư của việc thực thi quyền tác giả. Ví dụ, ở Hoa
Kỳ (một nước không theo nguyên tắc bảo hộ tự động) có thể yêu cầu công dân
của mình, chứ không phải tác giả nước ngoài, đăng ký tác phẩm với văn phòng
bản quyền Hoa Kỳ. Ngoài ra, một số nước coi việc đăng ký như là bằng
chứng đầu tiên về giá trị hiệu lực và quyền sở hữu của quyền tác giả.
Pháp luật Việt Nam về quyền tác giả cũng có những quy định tương
tự. Theo quy định tại Điều 6 Luật SHTT thì quyền tác giả phát sinh kể từ khi
tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định
không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã
công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Đây là một khác
biệt cơ bản của quyền tác giả trong việc xác lập quyền, so sánh với việc xác
lập quyền sở hữu công nghiệp. Việc xác lập quyền tác giả của một tác phẩm
không căn cứ vào tiêu chí nộp đơn đầu tiên như yêu cầu quan trọng nhất trong
sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa - đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ VỀ QUYỀN TÁC
GIẢ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
1.2.1. Khái quát chung về tranh chấp dân sự về quyền tác giả
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2002: Tranh chấp là đấu tranh giằng co
khi có ý kiến bất đồng, thường là vấn đề quyền lợi giữa hai bên [64, tr. 1024].
Theo Từ điển Luật học: Tranh chấp dân sự là những tranh chấp về
quyền, quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp
luật dân sự như tranh chấp trong việc ký kết, thi hành và thanh toán các hợp
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi14
đồng mua bán, đầu tư, chuyển giao công nghệ, vận chuyển, bảo hiểm… hoặc
trong việc thực hiện các quyền về nhân thân có gắn liền với quan hệ tài sản
như quyền tác giả, phát minh, sáng chế, trong ly hôn, thừa kế v.v...
Như vậy, có thể hiểu: Theo nghĩa pháp lý, tranh chấp là sự bất đồng
hay xung đột về quyền lợi, nghĩa vụ dân sự giữa các bên, được thể hiện ra bên
ngoài mặt khách quan thông qua các bằng chứng cụ thể. Nhìn chung, tranh
chấp là vấn đề về nhận thức, có nghĩa là nếu không một ai nhận thức được
những bất đồng thì có nghĩa là thực sự không có tranh chấp. Những bất đồng
này phải được biểu hiện ra bên ngoài bằng những bằng chứng cụ thể, chẳng
hạn như những ý kiến bất đồng (như trong định nghĩa tranh chấp của Từ điển
Tiếng Việt), hay một văn bản gửi đến bên kia (như thông báo đòi nhà trong
các vụ án dân sự) nhưng cũng có khi được thể hiện bằng việc gửi đơn khởi
kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết. Quan điểm này được khẳng định trong
định nghĩa về việc dân sự tại đoạn 2 Điều 311 BLTTDS năm 2004: Việc dân
sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp nhưng có yêu cầu
Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự…; yêu cầu công nhận cho mình quyền về
dân sự… Thực tế xét xử ở Tòa án cho thấy, có những trường hợp hai bên có
những bất đồng hay xung đột về quyền lợi, nghĩa vụ nhưng đã tự hòa giải và
cùng yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý nào đó, như công nhận
việc ly hôn, công nhận việc phân chia tài sản…; về mặt nhận thức thì rõ ràng
hai bên có mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi nhưng biểu hiện ra bên ngoài là
một ý chí thống nhất thì về mặt pháp lý, trường hợp này không được gọi là
tranh chấp. Khi các bên gửi đơn đến Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa
án sẽ thụ lý thành một việc dân sự chứ không phải một vụ án dân sự.
Vì quyền tác giả là một quyền dân sự nên về bản chất, tranh chấp dân
sự về quyền tác giả là một loại tranh chấp dân sự. Có thể định nghĩa tranh
chấp dân sự về quyền tác giả như sau: Tranh chấp dân sự về quyền tác giả là15
sự bất đồng hay xung đột về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên về quyền tác
giả, được thể hiện ra bên ngoài mặt khách quan thông qua các bằng chứng cụ
thể. Các tranh chấp dân sự về quyền tác giả có thể phát sinh trực tiếp từ đối
tượng được bảo hộ của quyền tác giả (bao gồm cả vấn đề bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng) hay từ các giao dịch dân sự và các mối quan hệ có liên quan
tới việc khai thác các đối tượng này như hợp đồng chuyển nhượng, chuyển
quyền sử dụng quyền tác giả, hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả, hợp đồng
lao động, hợp đồng nghiên cứu… (Các loại tranh chấp dân sự về quyền tác
giả sẽ được nghiên cứu tại mục 2.2.1 chương II phần thẩm quyền theo loại
việc của Tòa án).
Chúng ta cần phân biệt tranh chấp dân sự về quyền tác giả với tranh
chấp dân sự về quyền sở hữu tài sản mang quyền tác giả. Ví dụ: Ở thế kỷ 21,
người ta có thể tranh chấp quyền sở hữu bức tranh của Van Gohn (chết năm
1890) trị giá hàng triệu USD nhưng đối tượng tranh chấp ở đây là bức tranh
thuần túy (loại tài sản là "vật" - theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005)
chứ không phải là quyền tác giả (chỉ xét đến khía cạnh quyền tài sản) bức
tranh đó.
Với những khách thể đặc thù như đã phân tích ở các phần trước, có
thể khẳng định tranh chấp dân sự về quyền tác giả là loại tranh chấp phức tạp,
gắn liền với các yếu tố kỹ thuật chuyên sâu liên quan đến nhiều lĩnh vực văn
hóa - nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật, do vậy không phải dễ dàng có thể nhận
thức và đánh giá chính xác bản chất và tình huống của các tranh chấp loại này
ngay cả đối với các bên tranh chấp. Trên thực tế, đã có rất nhiều tranh chấp
xảy ra hoàn toàn không phải do chủ ý của bất kỳ bên nào mà là do sự không
nhận thức hay nhận thức không đầy đủ về hành vi xâm phạm của mình như
vụ án Tranh chấp về xâm phạm quyền tác giả giữa nguyên đơn là nhà báo
Phạm Thị Hà (bút danh Hà Linh) và bị đơn là Nhà xuất bản Văn hóa Thông
tin mà chúng ta sẽ cùng nghiên cứu ở phần sau của luận văn này.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi16
Tranh chấp dân sự về quyền tác giả có tính đa quốc gia: Các tranh chấp
loại này có thể phát sinh từ các mối quan hệ trải rộng trên nhiều quốc gia khác
nhau do chủ thể có quốc tịch khác nhau, địa điểm xảy ra tranh chấp có thể
cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới. Do vậy, các tranh chấp dân sự về
quyền tác giả cũng chịu sự điều chỉnh của nhiều điều ước quốc tế, điển hình là
Công ước Berne và Hiệp định TRIPs. Phán quyết của Tòa án đối với các tranh
chấp dân sự về quyền tác giả cũng đòi hỏi phải có sự công nhận quốc tế để có
thể thi hành trên thực tế.
1.2.2. Khái quát chung về giải quyết tranh chấp dân sự về quyền
tác giả
Giải quyết tranh chấp là cách thức, biện pháp nhằm khắc phục hoặc
loại trừ các tranh chấp phát sinh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên. Như vậy, mục đích của việc giải quyết tranh chấp là nhằm đảm bảo sự
công bằng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên có tranh chấp với
nhau. Từ đó, có thể định nghĩa giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả
là cách thức, biện pháp nhằm khắc phục hay loại trừ các tranh chấp để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ pháp luật về quyền tác
giả, cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ quyền tác giả.
Việc giải quyết tranh chấp thỏa đáng giúp cho quyền lợi hợp pháp của
các bên được đảm bảo (cả quyền lợi về vật chất và tinh thần), loại bỏ sự nặng
nề về tâm lý, duy trì mối quan hệ giữa các bên. Việc giải quyết đúng đắn các
tranh chấp dân sự về quyền tác giả nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ
thể, giữa các công dân trước pháp luật góp phần thiết lập sự công bằng trong
toàn xã hội. Việc giải quyết nhanh chóng, thuận tiện góp phần tạo dựng và
hoàn thiện môi trường lành mạnh cho các tác giả nâng cao sức sáng tạo của
mình. Thông qua việc giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án
có thể đánh giá được sự phù hợp của pháp luật với thực tiễn để tìm ra những
Khi chúng ta xây dựng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, do tính chất phức tạp và đòi hỏi
chuyên môn cao, việc xét xử các vụ án tranh chấp dân sự về quyền SHTT sẽ
không được trao cho bất kỳ Tòa án khu vực nào. Việc giải quyết theo trình tự
sơ thẩm các vụ án tranh chấp dân sự về quyền SHTT nói chung (quyền tác giả
nói riêng) sẽ được giải quyết tại Tòa SHTT thuộc Tòa án Phúc thẩm được đặt
ở ba thành phố lớn là thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành
phố Đà Nẵng. Việc phúc thẩm các vụ án tranh chấp dân sự về quyền SHTT
nói chung (quyền tác giả nói riêng) thuộc thẩm quyền của Tòa Thượng Thẩm
cũng được đặt tại ba thành phố lớn kể trên.
Về cơ cấu tổ chức của Tòa SHTT: Các Thẩm phán thuộc Tòa SHTT
phải đồng thời là chuyên gia trong lĩnh vực này. Yêu cầu này cũng khó thực
hiện trong thời gian ngắn. Trước mắt, chúng ta cần tuyển chọn những Thẩm
phán đã từng xét xử các vụ án về quyền SHTT và có khả năng ngoại ngữ
trong cả nước phân công về Tòa SHTT, sau đó cho đi học chuyên sâu để có
thể trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này. Nếu số lượng Thẩm phán còn
thiếu so với yêu cầu, có thể tuyển thêm các Thẩm phán khác nhưng phải đảm
bảo hội thẩm nhân dân được mời tham gia hội đồng xét xử phải là các chuyên
gia về SHTT (ví dụ: tùy từng trường hợp cụ thể, hội thẩm nhân dân được mời
tham gia hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp dân sự về quyền tác giả là
những người đang hay đã từng công tác tại Cục bản quyền tác giả, Cục
SHTT, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Hội nhạc sĩ Việt Nam...). Việc phúc thẩm
các vụ án tranh chấp dân sự về quyền SHTT gồm 3 Thẩm phán thì ít nhất một
Thẩm phán phải là Thẩm phán chuyên trách về SHTT.
Đối với việc tuyển dụng ngạch Thư ký về công tác tại Tòa SHTT,
ngoài yêu cầu có bằng cử nhân luật chính quy, cần có thêm chứng chỉ liên
quan đến pháp luật về SHTT.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi112
Về hoạt động xét xử của Tòa SHTT: Bên cạnh các quy định chung về
nguyên tắc xét xử, cần ban hành những quy định riêng về thủ tục xét xử các
vụ án SHTT; theo đó, thủ tục tiến hành phải linh hoạt, đơn giải hóa (có thể
học tập kinh nghiệm của nước ngoài như thẩm vấn nhân chứng qua điện
thoại, sử dụng mạng Internet để thẩm vấn nhân chứng ở xa (có khi ở quốc gia
khác), các quy định về xét xử kín, không quy định việc hoãn phiên tòa,... Để
đảm bảo tính chuyên môn trong quá trình xét xử, cần xây dựng cơ chế phù
hợp nhằm huy động sự tham gia của các chuyên gia, thẩm định viên... vào quá
trình xét xử của Tòa án.
3.4. CẢI TIẾN CƠ SỞ VẬT CHẤT, ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHỤC VỤ CÔNG TÁC XÉT XỬ VÀ NÂNG CAO ĐỜI SỐNG CỦA CÁN BỘ TÒA ÁN
Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ những nhân tố
quan trọng tác động lớn đến số lượng và chất lượng giải quyết các hồ sơ vụ
án. Để các Thẩm phán không bị chi phối bởi tiêu cực xã hội, ngoài các quy
định cụ thể rõ ràng của pháp luật, sự giám sát của nhân dân, Nhà nước cần có
sự đãi ngộ đứng mức để họ có thể vô tư khách quan trong xét xử. Ở nhiều
nước trên thế giới, Thẩm phán được xếp ngạch lương cao nhất trong các cơ
quan nhà nước. Ví dụ: Ở Nhật Bản, Thẩm phán được coi là "công dân số 1"
và được xếp bậc lương cao nhất, được tạo điều kiện mua nhà, ô tô và các tiện
nghi khác phục vụ cuộc sống. Chính vì vậy, ở Việt Nam, song song với quá
trình đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống Tòa án, cũng cần quan tâm
xem xét, có lộ trình để nâng dần chế độ đãi ngộ cho Thẩm phán để họ yên tâm
trong công tác xét xử. Lương của Thẩm phán và cán bộ Tòa án ít nhất cũng
phải tăng 3-4 lần so với hiện nay mới đủ đảm bảo cuộc sống bình thường.
Ngoài ra, cần có thêm phụ cấp ngành (ví dụ: Đối với những Thẩm phán, Thư
ký được phân công giải quyết vụ án, quá trình thu thập chứng cứ phải đi lại
nhiều để xác minh hay thực hiện thủ tục tống đạt thì phải có phụ cấp tiền113
xăng hàng tháng....) để giảm bớt khó khăn về điều kiện vật chất cho Thẩm
phán và các cán bộ Tòa án.
Bên cạnh việc quan tâm đến chế độ đãi ngộ cho các Thẩm phán, cán
bộ Tòa án, cần đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục phục công tác xét xử
như lắp hệ thống camera, máy ghi âm trong phòng xử án và phòng làm việc.
Cần tuyển dụng các chuyên gia trong lĩnh vực tin học với mức lương hợp lý
để lập trình các phần mềm quản lý hồ sơ vụ án từ khâu thụ lý, giải quyết hồ sơ
cho đến khâu lưu trữ để nhằm giải quyết nhanh chóng các hồ sơ vụ án và
phục vụ công tác thống kê. Vấn đề này đã được áp dụng ở TAND Thành phố
Hồ Chí Minh.
Học tập kinh nghiệm của nước ngoài, chúng ta có thể lắp đặt mạng
Internet trong phòng làm việc và phòng xử án để các Thẩm phán có thể nhanh
chóng cập nhật thông tin trên phạm vi toàn cầu, việc làm này đặc biệt cần
thiết trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp thường có yếu tố nước ngoài
như tranh chấp dân sự về quyền tác giả nói riêng (quyền SHTT nói chung).
Mặt khác, chúng ta có thể sử dụng mạng Internet để lấy lời khai của nhân
chứng ở bất kỳ đâu trên thế giới mà không phải triệu tập họ đến Tòa án làm
việc - một việc làm đặc biệt khó khăn, tốn kém đối với nhân chứng sống
ngoài lãnh thổ Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Chương 3 đưa ra bức tranh toàn cảnh về thực trạng giải quyết tranh
chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án ở nước ta cũng như phân tích các
nguyên nhân dẫn đến nghịch cảnh các tranh chấp loại này trên thực tế ngày
càng tăng và phức tạp nhưng các vụ án được giải quyết tại Tòa án lại rất ít.
Các giải pháp được nêu trong chương này là các giải pháp cơ bản cho
việc hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả cũng
như nâng cao hiệu quả của việc giải quyết loại tranh chấp này tại Toà án ở
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi114
Việt Nam. Thực hiện tốt các giải pháp này, hy vọng trong tương lai, chúng ta
sẽ có một hệ thống Tòa án đủ mạnh trong việc giải quyết các loại tranh chấp
này và số lượng các vụ án được giải quyết tại Tòa án ngày càng tăng
Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang thực hiện đường lối mở
cửa, hướng tới dần hòa nhập vào cộng đồng quốc tế về mọi mặt của đời sống
xã hội, việc hoàn thiện pháp luật của quốc gia nói chung và pháp luật về giải
quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả nói riêng cũng như đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao năng lực của Tòa án trong việc giải quyết loại tranh chấp
này là một công việc có ý nghĩa quan trọng. Nó không chỉ thể hiện tư tưởng
tôn trọng quyền sáng tạo của cá nhân, bảo vệ quyền sáng tạo của cá nhân từ
phía cơ quan công quyền, mà còn là nền tảng vật chất cho sự phát triển sáng
tạo của cá nhân, cho sự trao đổi tri thức giữa người sáng tạo và người sử dụng
trên phạm vi quốc gia và rộng hơn là trên bình diện quốc tế, nhằm mục đích
nâng cao trí tuệ của nhân loại khi bước vào thiên nhiên kỷ của một nền kinh tế
tri thức.
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả đã cố gắng để đưa
ra những khái quát chung về chế định giải quyết tranh chấp dân sự về quyền
tác giả tại Tòa án; phân tích hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện hành và
thực trạng giải quyết tranh chấp tại Tòa án, cũng như đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp dân sự
về quyền tác giả tại Tòa án và các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của Tòa
án trong việc giải quyết loại tranh chấp này. Tuy nhiên, nghiên cứu đề tài giải
quyết tranh chấp dân sự về quyền tác giả tại Tòa án là một lĩnh vực còn rất
mới mẻ trong khoa học pháp lý Việt Nam. Với thời gian và trình độ có hạn,
luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót cả về nội dung và cách trình bày.
Chính vì vậy, tác giả mong nhận được ý kiến chỉ dẫn của các nhà khoa học và
những người đọc luận văn này. Tác giả mong muốn được tiếp thu và sửa chữa
những thiếu sót của luận văn trong thời gian tới.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top