galaxy_angel

New Member

Download Về những tồn tại, hạn chế của chế định hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 miễn phí





Chúng ta đều biết, việc quy định hình phạt trục xuất trong BLHS năm 1999 là do nhu cầu xã hội cũng như yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới đòi hỏi. Nó tạo điều kiện cho các toà án vận dụng linh hoạt hơn các biện pháp xử lý hình sự đối với người phạm tội. Nhưng, theo chúng tôi việc không quy định rõ ràng nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng trục xuất với tính chất là HPC hay là HPBS, cũng như một số vấn đề khác có liên quan đến loại hình phạt này trong BLHS là những hạn chế trong LPHS quy định về loại hình phạt này. Chúng tôi cho rằng một HTHP hoàn thiện là hệ thống trong đó có quy định đa dạng các loại hình phạt. Một HTHP hoàn thiện phải là hệ thống mà trong đó đối với mỗi loại hình phạt, dù là HPC hay HPBS, nhà làm luật cần quy định rõ ràng nội dung, điều kiện, phạm vi và giới hạn áp dụng (giới hạn tối thiểu và tối đa) của nó. HTHP hoàn thiện cũng phải là một hệ thống mà trong đó các hình phạt không chỉ được quy định ở Phần chung BLHS mà còn được quy định trong những điều luật về tội phạm và hình phạt cụ thể trong Phần các tội phạm của BLHS. Hình phạt quy định đối với mỗi tội phạm phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

hế nhưng trong Phần các tội phạm BLHS, nhà làm luật chỉ quy định HPBS này đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở chương XI, còn không có quy định hình phạt này cho các tội phạm trong các chương khác Phần các tội phạm BLHS. Rõ ràng ở đây không có sự đồng bộ giữa quy định Phần chung và Phần các tội phạm BLHS, gây khó khăn cho các tòa án khi xét xử nên cần khắc phục.
Thứ ba, Điều 39 BLHS quy định “Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia..., thì bị tước một hay một số quyền sau đây:...”. Theo cách quy định này có thể hiểu là đối với những trường hợp phạm tội mà bị phạt tù thì đương nhiên bị áp dụng loại hình phạt này, toà án không được tuỳ nghi áp dụng. Thế nhưng Điều 92 BLHS lại quy định “có thể”, tức là tuỳ nghi áp dụng loại hình phạt này đối với người phạm các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Như vậy ở đây đã có sự mâu thuẫn trong quy định của BLHS liên quan tới HPBS này.
Thứ tư, các HPBS, trong đó có hình phạt tước một số quyền công dân quy định trong cùng Điều 92 áp dụng chung đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia thể hiện rõ xu hướng đơn giản hoá. Tuy nhiên, nó lại thiếu tính hợp lý trong cấu trúc của Phần các tội phạm BLHS thể hiện ở chỗ điều luật quy định riêng về hình phạt lại cơ cấu cùng với các quy phạm quy định về tội phạm cụ thể, đồng thời việc HPBS được quy định chung cho cả nhóm tội phạm sẽ rất khó cho việc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt và cũng không thuận tiện cho việc áp dụng của các toà án.
3. Về hình phạt cấm cư trú
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 37 BLHS: “buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định”, chúng tui thấy có hai khiếm khuyết, một là, nhà làm luật sử dụng động từ “buộc” là không chính xác trong sự so sánh với động từ “cấm” mà ở đây phải sử dụng cụm từ “không được phép” thì chính xác hơn về mặt kỹ thuật lập pháp; hai là, quy định người bị kết án “không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định” là không phù hợp với thực tiễn xét xử, bởi vì tuỳ từng trường hợp cụ thể các toà án có thể quyết định cấm người bị kết án không được tạm trú và thường trú ở một hay một số địa phương nhất định, chứ không nhất thiết cứ phải cấm người bị kết án không được tạm trú và thường trú ở “một số” địa phương.
Thứ hai, mặc dù Điều 37 BLHS đã xác định rõ là cấm cư trú chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt tù, chứ không được áp dụng kèm theo các HPC khác. Nhưng do BLHS lại quy định trong HTHP lại có hai loại hình phạt tù: Tù có thời hạn và tù chung thân nên có những nhận thức không thống nhất trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn áp dụng. Có quan niệm cho rằng cấm cư trú có thể được áp dụng kèm theo không chỉ hình phạt tù có thời hạn mà cả với tù chung thân, vì đối với người bị kết án tù chung thân, trong thực tiễn thi hành án không có trường hợp nào phải thụ hình cả đời trong trại giam, thường thì họ được giảm án, tha tù trở về chung sống với gia đình và xã hội, vì thế hình phạt cấm cư trú có thể được áp dụng kèm theo hình phạt tù chung thân [1]. Nhưng theo nhận thức của chúng tôi, hình phạt cấm cư trú chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn, bởi theo quy định của luật và cách hiểu truyền thống thì một người khi đã bị phạt tù chung thân thì sẽ bị cách ly vĩnh viễn khỏi cuộc sống xã hội, phải ở tù suốt đời và trong trường hợp ấy, Toà án không thể tuyên hình phạt cấm cư trú kèm theo mà không biết chắc chắn hình phạt này có được thi hành hay không. Ngoài ra, với quy định tại đoạn cuối của Điều 37 “Thời hạn cấm cư trú là từ một năm đến năm năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù” đã thể hiện rõ ý chí của nhà làm luật là cấm cư trú chỉ có thể áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn. Chúng tui nhất chí với cách giải thích này. Tuy nhiên, cần hiểu là pháp luật có đặc thù riêng là sự đòi hỏi tuân thủ về mặt hình thức và chặt chẽ về mặt ngôn ngữ, rõ ràng chính xác trong câu chữ, nếu không dễ mất đi tính xác định, tính rõ ràng và người ta sẽ không hiểu được nhà làm luật muốn gì, cho phép làm gì, cấm gì, cấm như thế nào và hậu quả là quy phạm sẽ hay là không được thực thực hiện hay thực hiện sai trong lĩnh vực áp dụng pháp luật. Vì vậy, chúng tui cho rằng nhà làm luật phải quy định rõ ràng hơn để tránh sự hiểu lầm không đáng có của cơ quan áp dụng pháp luật.
Thứ ba, Điều 37 BLHS chỉ quy định “buộc người bị kết án tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định”. Như vậy, điều luật chưa quy định đầy đủ nội dung của hình phạt cấm cư trú. Tuy rằng Nghị định 53/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành hình phạt này cũng đã quy định những nghĩa vụ và quyền hạn của người bị kết án. Nhưng Nghị định này xét cho cùng cũng chỉ là một văn bản dưới luật, mà theo nguyên tắc pháp chế thì hình phạt phải được quy định trong LHS (Điều 26 BLHS), vì thế nội dung của hình phạt cấm cư trú được quy định tại Điều 37 phải còn bao gồm cả các nghĩa vụ bắt buộc khác hiện đang được quy định Nghị định 53/2001/NĐ-CP thì mới đúng, mới có thể tránh được việc áp dụng tuỳ tiện có thể xảy ra, xâm hại đến quyền và lợi ích của người bị kết án.
Thứ tư, nếu như đối với các HPBS khác như quản chế (Điều 38), tước một số quyền công dân (Điều 39), tịch thu tài sản (Điều 40) hay là phạt tiền bổ sung (khoản 2 Điều 30) nhà làm luật đều quy định cụ thể phạm vi áp dụng các loại hình phạt ấy đối với những loại tội phạm nhất định, thì trái lại đối với hình phạt cấm cư trú, Điều 37 lại không có quy định như vậy. Đây là một trong những hạn chế của luật thực định, nó không chỉ thể hiện sự không cân xứng về mặt hình thức mà còn ảnh hưởng đáng kể đến sự thống nhất trong việc áp dụng loại hình phạt này. Ngoài ra, cũng cần chú ý là tuyệt đại đa số các điều luật cụ thể quy định hình phạt này thường trong sự lựa chọn với hình phạt quản chế (chỉ trừ tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới-Điều 273). Vì thế, nếu không xác định rõ ràng nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng hai loại hình phạt này thì e rằng sẽ hạn chế rất nhiều đến hiệu quả trong thực tế áp dụng loại hình phạt này.
Thứ năm, như phần nghiên cứu hình phạt tước quyền công dân chúng tui đã trình bày, các HPBS quy định trong cùng một Điều 92 áp dụng chung đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia là thiếu tính hợp lý trong cấu trúc của Phần các tội phạm BLHS. Điều luật quy định riêng về hình phạt lại cơ cấu cùng với các quy phạm quy định về tội phạm cụ thể, đồng thời việc HPBS quy định chung cho cả nhóm tội phạm sẽ khó trong việc phân hoá tội phạm, cá thể hoá TNHS và cũng không thuận tiện cho việc áp dụng của Toà án các cấp. Mặt khác nghiên cứu Điều 92 cho thấy có sự quy định không chặt chẽ về kỹ thuật l...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
B [Free] Đề án Vấn đề tiến tới tự do hóa lãi suất và đề xuất những kiến nghị về định hướng tự do hoá l Luận văn Kinh tế 0
H [Free] Trình bày những kiến thức cơ bản về tỷ lệ mắc bệnh, nguyên nhân, biểu hiện lâm sàng của rối l Tài liệu chưa phân loại 0
H [Free] NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH THIÊN TAI Tài liệu chưa phân loại 0
V [Free] Những vấn đề chung về công nghiệp hoá-hiện đại hoá và công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông thôn. Tài liệu chưa phân loại 0
N [Free] Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược l Tài liệu chưa phân loại 0
X [Free] Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Những vấn đề về kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm trong các doanh nghiệp Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
Z [Free] Những vấn đề lí luận chung về kinh tế thị trường Tài liệu chưa phân loại 0
M [Free] Những vấn đề lý luận về lạm phát Tài liệu chưa phân loại 0
R [Free] Những nội dung cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top