yeudoi_2202

New Member
Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu Chế định chủ tịch nước qua hai bản Hiến pháp 1980 và 1992



- Theo HP 80, do vị trí vừa là cơ quan thường trực Quốc hội, vừa là Chủ tịch nước tập thể, nên thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước là rất rộng, sự phân công thực hiện nhiệm vụ không cụ thể dẫn đến tình trạng HP80 quy định nhiệm vụ của Hội đồng nhà nước là nặng nề, ôm đồm, điều này dẫn đến nhiều mặt hạn chế trong khi hoạt động. Tuy chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước là rất lớn nhưng cơ cấu thành viên lại hầu hết là những người kiêm nhiệm.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước được quy định tại Điều 100 HP 80 tương đương với thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của chủ tịch nước trong HP 59. Trong số các quyền thì việc quyết định thành lập hay bãi bỏ các bộ, các ủy ban nhà nước, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng và chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước; việc tuyên bố tình trạng chiến tranh, Hội đồng nhà nước phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 HP 80 còn ghi nhận: “Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”.
BÀI LÀM
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945, nước ta đã là một nước cộng hòa mang chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, bộ máy nhà nước ta nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng cũng được tổ chức theo mô hình này, thể hiện rõ nét đặc trưng của chính thể. Trong cơ chế nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước ( hay hình thức Chủ tịch nước tập thể), và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất của các thiết chế này cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước, tuy nhiên trong từng Hiến pháp vẫn có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng.
Việc nghiên cứu, làm rõ nội dung của chế định Chủ tịch nước qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc nói chung, và đặc biệt là qua hai mốc trọng đại: Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1993 nói riêng, giúp ta có cái nhìn hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, về một mảng kiến thức quan trọng trong ngành luật hiến pháp. Tìm hiểu Chế định chủ tịch nước qua hai bản Hiến pháp 80 và 92 giúp ta so sánh, đồng thời tìm ra những điểm kế thừa, phát triển, bổ sung khuyết thiếu, sửa đổi sai sót của thời kỳ trước trong pháp luật hiện hành.

B. PHẦN NỘI DUNG:
I. Cơ sở lý luận về chế định chủ tịch nước:
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng, tuy nhiên, ở mỗi nước, nó lại có một tên gọi khác nhau: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này tuy có vị trí khác nhau trong bộ máy của từng nước, nhưng đều là có ý nghĩa là người thay mặt cho nước về đối nội và đối ngoại.
Về bản chất, nguyên thủ quốc gia là một chế định thuần túy của bộ máy nhà nước tư sản. Với nguyên tắc nghị viện là cơ quan nắm quyền lực nhà nước đồng thời là “ nguyên thủ quốc gia”, nhung do nhiều nguyên nhân, giai cấp tư sản vẫn để vua tồn tại hay lập một cơ cấu mới là tổng thống, có vị trí tương tự như vua. Sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở nhà nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau, từ đó có tính chất, nhiệm vụ, chức năng khác nhau, nhưng đều đóng vai trò nhất định trong tổ chức quyền lực nhà nước, đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp ở các nước tư bản.
Đến nhà nước XHCN, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, về nguyên tắc, thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết. Một số nước XHCN, do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước thì chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện nguyên thủ quốc gia phần nhiều là do thông lệ quốc tế, để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính long trọng, hình thức và trong chừng mực nhất định, để phối hợp các hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước.
Với cơ sở lý luận và nguyên tắc chung như trên, thiết chế nguyên thủ quốc gia ở nhà nước ta đã được xây dựng qua 4 bản Hiến pháp, trong đó với HP 80 là chế định Hội đồng nhà nước (Chủ tịch nước tập thể) và HP 92 là chế định Chủ tịch nước, với vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn, mối quan hệ với các cơ quan khác được quy định khác nhau, nhưng vẫn thể hiện sự kế thừa, phát triển.
II. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992:
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Chế định Chủ tịch nước theo HP 1980: Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, tổ chức và hoạt động Nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và quan điểm mới. 18/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI chính thức thông qua Hiến pháp 1980. Chủ tịch nước, theo quy định của Hiến pháp năm 1980, nằm trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước ở trung ương với tên gọi là Hội đồng Nhà nước. Hiến pháp năm 1980 đã “sát nhập” hai chức năng của Ủy ban thường vụ quốc hội với chức năng của Chủ tịch nước là cá nhân trong Hiến pháp 1959 vào một cơ quan duy nhất là Hội đồng nhà nước.
- Chế định Chủ tịch nước theo HP 1992: Trên thế giới, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, yêu cầu bức thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Trong quá trình hoạt động, chế định Hội đồng nhà nước bộc lộ nhiều hạn chế. 15/4/1002, Quốc hội khóa VIII thông qua Hiến pháp 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản, trong đó thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng lại, vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước, đồng thời cũng có thêm những đặc điểm mới.
2. Vị trí, tính chất của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước:
- Theo HP 80: Điều 98 quy định: “Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCN Việt Nam”. Như vậy, Hội đồng nhà nước giữ hai vị trí: nguyên thủ tập thể của nước ta, đồng thời là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của cơ quan có quyền lực cao nhất – Quốc hội”.
- Theo HP 92: Điều 101 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”, nghĩa là Chủ tịch nước chỉ giữ vai trò nguyên thủ quốc gia.
Sự hiện diện trở lại của thiết chế Chủ tịch nước cá nhân trong HP 92 vừa kế thừa sự gắn bó tạo thành khối thống nhất quyền lực nhà nước của chế định Chủ tịch nước theo HP 80, vừa đảm bảo sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:


Xem thêm
So sánh Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992
 

lnqhai1234

New Member
Re: [Free] Tiểu luận Tìm hiểu Chế định chủ tịch nước qua hai bản Hiến pháp 1980 và 1992

many thanks
 

tctuvan

New Member
Re: [Free] Download Tiểu luận Tìm hiểu Chế định chủ tịch nước qua hai bản Hiến pháp 1980 và 1992

Link mới update cho bạn đó
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top