motlan

New Member
Tải miễn phí luận văn

MỞ ĐẦU​​
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng và Đăk Nông. Có diện tích tự nhiên 5447,4 nghìn ha, chiếm 17,5% diện tích cả nước, lớn gấp 1,4 lần diện tích các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tây Nguyên là khu vực rộng lớn có vị trí quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng đối với Việt Nam. Trong hàng chục năm nay, sự di cư ồ ạt của nhiều người, nhiều cộng đồng dân tộc từ nhiều vùng miền khác nhau đến Tây Nguyên lập nghiệp đã làm cho dân số và thành phần dân tộc của vùng thay đổi nhanh chóng. Theo thống kê mới nhất, trên mảnh đất Tây Nguyên đang có 43 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó người Kinh chiếm 65,8%, tiếp đến là các dân tộc thiểu số khác như Ba Na, Ê Đê, Mnông, Gia Jai, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Brâu . Vì thế, có thể nói Tây Nguyên là vùng đa màu sắc văn hoá tộc người, khá phong phú, phức tạp về phương diện tín ngưỡng- tôn giáo và nhiều màu sắc nhất ở Việt Nam.
Trong lịch sử, Tây Nguyên là vùng đất hào hùng, giàu truyền thống cách mạng, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đây. Sống trên mảnh đất hùng vĩ bao đời, đồng bào các dân tộc ở đây đã chung sức, đồng lòng tạo dựng nên một nền văn hóa hết sức phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc, với những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể nổi tiếng và kho tàng văn học dân gian hết sức đặc sắc. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có tinh thần đoàn kết, cần cù, chịu khó và tương thân tương ái, yêu thương con người, thiên nhiên, đất nước, chuộng hòa bình nhưng anh dũng bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Tây Nguyên không chỉ là vùng có tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế, nơi ẩn chứa nhiều nhân tố nội sinh cho sự phát triển văn hoá tinh thần, phát triển xã hội nói chung mà đây cũng là vùng trọng điểm trong chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia. Với trên 580 km đường biên giới với Lào và Campuchia, Tây Nguyên là địa bàn được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư, xây dựng để cùng hoà nhập với tiến trình phát triển chung của đất nước, mặt khác, cũng vì lẽ đó Tây Nguyên trở thành vùng trọng yếu, nhạy cảm mà các thế lực đế quốc, phản động nhòm ngó, rắp tâm thực hiện cài cắm xây dựng lực lượng, tạo dựng các "phong trào" nhằm chống phá công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, chống phá chế độ .
Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để đầu tư, xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, các cấp bộ đảng, chính quyền địa phương đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị các cấp để lãnh đạo, chỉ đạo và tạo dựng nhiều điều kiện cần thiết cho mọi người dân lao động, mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên hoà nhập, thích nghi với lối sống mới, chế độ mới. Đặc biệt từ ngày đổi mới đến nay, nhịp điệu cuộc sống, cách thức sản xuất, làm ăn của nhiều nhóm cư dân, nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh trong vùng đã thực sự khởi sắc, năng động, sáng tạo và làm ăn ngày càng có hiệu quả . Phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số ở các buôn làng đã định canh, định cư, thực hiện thâm canh sản xuất hàng hoá. Rất nhiều trang trại, nhiều vùng sản xuất tập trung cà-fê, cao su, dâu tằm, cây ăn quả, cây lương thực . hình thành, phát triển đạt hiệu quả kinh tế hàng hoá cao. Nhiều phố mới, làng mới, nhiều cơ sở hạ tầng được xây dựng, phát triển làm cho bộ mặt Tây Nguyên hiện nay liên tục được thay da, đổi thịt theo dáng dấp của xã hội đang trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của đa số tầng lớp dân cư ở Tây Nguyên được nâng lên rõ rệt so với thời kỳ trước đổi mới
Tuy vậy, cũng cần nói thêm một thực tế khác, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nhìn tổng thể sự phát triển của các tỉnh Tây Nguyên vẫn chưa hoàn toàn vững chắc, nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội và đặc biệt là những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp, nhạy cảm vẫn đang tiềm ẩn sự "bùng nổ". Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm. Kinh tế vùng sâu, vùng xa chậm phát triển, đời sống đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội không đồng bộ, đội ngũ cán bộ dân tộc, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý mặc dù được sự quan tâm đào tạo nhưng vẫn còn thiếu và yếu. Thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức thực tiễn để lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số. Do trình độ hạn chế của đội ngũ cán bộ nên đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống. Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, công sức của nhân dân và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Nhiều vùng còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, tình trạng tranh chấp đất đai, diễn ra thường xuyên, làm cho công tác quản lý hành chính gặp nhiều khó khăn, quan hệ dân tộc càng phức tạp. Mặt khác, quá trình phát triển kinh tế thị trường làm cho sự phân hóa giàu cùng kiệt giữa các tầng lớp dân cư, nhất là giữa người kinh và người dân tộc thiểu số tại chổ càng lớn. Đó là những nguyên nhân xuất hiện tư tưởng bài kinh, làm cho khối đoàn kết dân tộc bị tổn thương.
Trong lĩnh vực an ninh, trật tự - an toàn xã hội đã và đang nẩy sinh khá nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, trong đó tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định về Chính trị -xã hội, tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của vùng Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với những biến đổi trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, sự thay đổi của cơ sở hạ tầng kéo theo những biến đổi của kiến trúc thượng tầng, trong đó có tín ngưỡng tôn giáo. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng có những thay đổi. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyền đạo Tin Lành trái phép vào vùng các đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên. Âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để lừa phỉnh, lôi kéo, mua chuộc, kích động, gây chia rẽ, ly khai hòng gây bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng, đe dọa an ninh quốc gia, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Trong những năm gần đây, các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin Lành tăng cường các hoạt động truyền giáo, lôi kéo, phát triển tín đồ trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đạo Tin Lành đã bành trướng rất nhanh trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là, cùng với hoạt động truyền bá đạo Tin Lành, thời gian qua đã có nhiều hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch trong và ngoài nước chống phá Việt Nam. Núp bóng cái gọi là “Tin Lành Đề Ga”, chúng âm mưu thành lập một “nhà nước Đề Ga tự trị”, chúng đã cài cắm, phát triển các cơ sở, tổ chức các hoạt động biểu tình, bạo loạn. Các sự kiện diễn ra vào tháng 02 năm 2001 và tháng 04 năm 2004 ở các tỉnh Tây Nguyên (tập trung là những sự biến xảy ra ở 2 tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk) là một trong những loại tình huống chính trị-xã hội cụ thể phản ánh tính chất phức tạp, nhạy cảm trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên đó cũng chính là quá trình giải quyết các lực cản, tạo lập những tiền đề, động lực cho sự phát triển bền vững ở các tỉnh Tây Nguyên thời kỳ tiếp theo.
Những ngày cuối tháng 01 đầu tháng 02 năm 2001 và những ngày trung tuần tháng 04 năm 2004 ở nhiều địa phương (buôn, làng, xã, huyện, tỉnh) trên vùng đất Tây Nguyên đã thực sự "nóng bỏng" lên bởi những cuộc biểu tình, gây rối, chống phá chính quyền, chống phá chế độ của hàng nghìn người thuộc các dân tộc thiểu số bản địa. Ngay khi sự kiện bùng phát, hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định, đây là những vụ bạo loạn chính trị mà các thế lực thù địch đã lợi dụng các vấn đề dân tộc - tôn giaó nhằm chống phá công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta; là những sự kiện, biến cố khởi phát từ chuỗi những âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước phối hợp tiến hành.
Tuy nhiên, đứng trên quan điểm và phương pháp tiếp cận hệ thống lại phải lưu ý rằng: Mục tiêu, âm mưu và hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chống phá phong trào cộng sản nói chung và chống phá cách mạng Việt Nam (dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam) là bản chất, là tham vọng cuả các thế lực đế quốc và các lực lượng phản động trong và ngoài nước. Song, kẻ thù có khả năng thực hiện ý đồ đó đến đâu? Vào lúc nào? Ở đâu trên đất nước ta? . Điều đó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà yếu tố quan trọng hàng đầu chính là do tương quan so sánh lực lượng, tuỳ từng trường hợp vào khả năng, sức mạnh của chính chúng ta . Từ đó, có thể nói, các điểm nóng diễn ra ở Tây Nguyên vừa có những nguyên nhân sâu xa vừa có những nguyên nhân trực tiếp, vừa có những nguyên nhân nằm sâu trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội; vừa có những nguyên cớ phát sinh từ những tình huống chính trị cụ thể, vừa có nguyên nhân từ sự chống phá của các thế lực thù địch lại có nguyên nhân từ sự thiếu sót sai lầm của chúng ta.
Có thể nhận thấy rằng, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, thời gian qua các thế lực thù địch đã lợi dụng trình độ thấp kém, lạc hậu, sự khác biệt nhất định về kinh tế, xã hội văn hoá các dân tộc thiểu số để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thông qua hoạt động “diễn biến hoà bình”. Do vậy, đi đôi với nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, thì phải hết sức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, chủ động loại trừ bạo loạn, lật đổ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng, phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển, xây dựng các tỉnh Tây Nguyên vững mạnh mọi mặt đang được đặt ra vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, quyết liệt, có tính chất sống còn đối với sự tồn vong và phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, việc nhận diện "diễn biến hoà bình" trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, những thủ đoạn, bản chất của chiến lược"diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tui chọn đề tài “ Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên -Thực trạng và giải pháp để làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2008.
Trên ý nghĩa đó, thông qua quá trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn những thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành hoạt động chống phá thông qua “diễn biến hoà bình” ở Tây Nguyên, chúng tui tập trung phân tích một số vấn đề có liên quan đến việc các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” và xem đó như là một trong những phương diện có thể tiếp cận, cắt nghĩa và giải quyết, xử lý các tình huống đã và đang diễn ra.
Qua nghiên cứu ở các tỉnh Tây Nguyên, mỗi thành viên đề tài nêu lên những biện pháp cụ thể, từ đó tập hợp những biện pháp thống nhất có tính khả thi để giảng viên vận dụng vào những bài giảng có liên quan trong chương trình giảng dạy môn Quan hệ Quốc tế ở Học viện. Đồng thời cũng là tư liệu giúp cho các cơ quan chức năng ở địa phương hiểu rõ hơn âm mưu và thủ đoạn chống phá cách mạng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên của các thế lực thù địch, trên cơ sở đó không ngừng nâng cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là vùng đất nằm sâu trong nội địa Việt Nam, nhưng do có tầm quan trọng về mặt chiến lược cũng như có nhiều nét độc đáo về tự nhiên, văn hóa, xã hội và con người nên từ rất sớm Tây Nguyên đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước chú ý tìm hiểu
Tây Nguyên được người Phương Tây chú ý đến nhiều kể từ cuối thế kỷ XIX trở đi. Phần lớn những nghiên cứu của họ về Tây Nguyên thời kỳ này là nghiên cứu dạng mô tả, phân tích với mục đích giúp họ hiểu kỹ lưỡng hơn về tự nhiên, văn hóa, con người Tây Nguyên. Trong quá trình xâm lược và đô hộ Việt Nam, để phục vụ việc bình định và khai thác Tây Nguyên, người Pháp đã đầu tư nhiều hơn cho việc nghiên cứu vùng đất này, trong đó tiêu biểu như:
Công trình: “Les populations Moi du Darlac”(Những cư dân mọi ở Đắc Lắc) của BecnardH, viết về con người và xã hội các dân tộc thiẻu số bản địa ở Đắc Lắc, đăng tải ở “Bullentin d,Ecole Francaises d`Extrème Orient”, Hà Nội, năm 1907
Công trình “Lesjungles Moi” (Người Mọi rừng, của Maitre H, xuất bản ở Pari năm 1912. Công trình này đã có đề cập đến con người, văn hóa – xã hội các dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên.
Cuốn sách: “En siuvant le piste des homes sur les Hauts –plateaux du Vietnam” của Dounes J, xuất bản 1955 (Lần theo vết chân những người trên Cao Nguyên ở Việt Nam), mô tả con người, sinh hoạt xã hội của một số dân tộc ở Tây Nguyên.
Trong thời kỳ Mỹ xâm lược Việt Nam, các học giả Mỹ cũng đã đầu tư nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa, xã hội Tây Nguyên, chủ yếu là phục vụ mục đích bình định và thôn tính Tây Nguyên. Chính phủ Mỹ đã bảo trợ cho một số học giả Mỹ nghiên cứu và xuất bản những chuyên khảo về Tây Nguyên
Sau khi nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất cho đến nay, đặc biệt là giai đoạn thời kỳ đổi mới đất nước 1986 đến nay, Nghiên cứu Tây Nguyên đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu của nhiều nước khác nhau.
Ở trong nước, bắt đầu từ thời Lê Thánh Tông trở đi Tây Nguyên mới được nhắc đến nhưng còn rất mờ nhạt. Trong bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” và một số cuốn sử biên soạn thời kỳ Hậu Lê, Tây Nguyên được nhắc đến sơ sài, trong tác phẩm “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn cũng đã nói đến Tây Nguyên và người Tây Nguyên. Ngoài ra nghiên cứu Tây Nguyên còn thể hiện trong các tập sách: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt truyện .
Trong văn kiện các Đại hội, các Nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc điểm dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp ở Tây Nguyên. Các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm nghiên cứu về Tây Nguyên. Tiêu biểu như: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài báo: Tây Nguyên đoàn kết tiến lên - Tạp chí Cộng sản 1978; Cố Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh có bài viết: Đưa đồng bào các dân tộc Đắc Lắc lên Chủ nghĩa xã hội- Tạp chí Cộng sản, 1983, đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư và chỉ đạo các đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương, giải pháp cho phù hợp.
Một số công trình chuyên khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của Hoàng Văn Huyên (1980); Các dân tộc ít nguời ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984); Đại cương về các dân tộc Êđê, M`nông ở Đăk Lăk của Bế Viết Đẳng và các đồng tác giả (1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1981); Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên(1983); Cộng đồng quốc gia dân tộc ở Việt Nam của GS.Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc người, đặc điểm kinh tế –xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Trên lĩnh vực kinh tế xã hội: Đáng chú ý chương trình cấp nhà nước 48-09 Ủy ban khoa học xã hội, nay là Viện khoa học xã hội Việt Nam thực hiện trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn sách: Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên(1986); Tây Nguyên trên đường phát triển(1990); Một số vấn đề kinh tế- xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắc Lắc(1990). Các công trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học xác định các hình thức, bước đi trong quá trình đưa đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên.
Đặc biệt, gần đây có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như:
- Đề tài: Các hình thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hóa, do TS.Trương Minh Dục làm chủ nhiệm (1994- 1995)
- Phát triển kinh tế trang trại ở Tây Nguyên, do TS.Phạm Thanh Khiết làm chủ nhiệm (1999-2000)
- Một số chính sách kinh tế- xã hội đối với các dân tộc ít người ở Tây nguyên, do PGS.TS.Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm (1997-1998). Các công trình này đã đề cập khá rõ nét về thực trạng phát triển kinh tế xã hội Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó các tác giả đã đề cập đến những biến động của yếu tố xã hội cần quan tâm.
Trên lĩnh vực chính trị đã có một số công trình như:
- Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả do PGS. TS. Phạm Hảo và TS. Trương Minh Dục chủ biên với cuốn “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên”, Nxb, CTQG, Hà Nội, năm 2003, tập thể tác giả đã tập trung làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống chính trị Tây Nguyên, những vấn đề đặt ra ở các tỉnh Tây Nguyên trong xây dựng hệ thống chính trị, trên cơ sở đó đã đưa ra những giải pháp cơ bản để xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên.
- Đề tài nhánh cấp nhà nước KX05-11 về cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắc Lắc (1993-1994); “Một số vấn đề về xây dựng đôi ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên” do GS.TS.Lê Hữu Nghĩa làm chủ biên (2001). Các công trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị ở Tây Nguyên. Đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đọan hiện nay.
Trên lĩnh vực văn hóa: Ngoài các công trình nghiên cứu về sử thi, luật tục, văn hóa dân gian, có một số công trình mang tính lý luận như: “Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên” do PTS. Nguyễn Hồng Sơn Và PTS. Trương Minh Dục làm chủ biên (1996); “văn hóa các dân tộc Tây Nguyên thực trạng và những vấn đề đặt ra”, do GS.TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004); các công trình này đã đánh giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc; tôn giáo có các công trình như:
- “Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên” là đề tài cấp bộ, do PTS. Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm đề tài (1994-1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, đề ra các giải pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả chưa thấy được những mầm móng của những nguyên nhân làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc khi phát triển kinh tế thị trường. Đáng chú ý trong lĩnh vực này có các nghiên cứu khá công phu của GS.TS. Phan Hữu Dật và tập thể tác giả trong công trình: “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” (2001); Chuyên luận: “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên”(2004) của PGS.TS. Trương Minh Dục bước đầu đã đánh gía những thành công và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, phân tích các xu hướng xuất hiện trong quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên thời gian qua (in trong cuốn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đòan kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới, NXBCTQG, H, 2004)
- Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng đưa đồng bào theo đạo giáo ở Tây Nguyên đi lên CNXH(1975-1986), do TS. Trần Quốc Long làm chủ nhiệm (1996- 1997)
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên của PGS.TS. Trương Minh Dục, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2006,
- Với công trình nghiên cứu của tập thể tác giả do Th.S Đoàn Xuân Kỳ làm chủ nhiệm với đề tài : “Chiến lược diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc và hoạt động chống phá nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch”, Thông tin khoa học, số 2/1997, Phân viện Đà Nẵng- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tập thể các tác giả trình bày những thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã tiến hành để thực thi “diễn biến hoà bình ” ở nước ta trong giai đoạn mới.
Nghiên cứu tình hình hoạt động “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên trong những năm gần đây trên các lĩnh vực đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu tham gia như:
-Tác giả Nguyễn Văn Tài với bài viết: “Nhân tố con người trong phòng và chống “diễn biến hoà bình”, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/1996;
-Nguyễn Nam Khánh: “Mấy vấn đề cấp bách ở vùng Tây Nguyên” Tạp chí Cộng sản, số 3 tháng 1/2003 v.v
Thời gian gần đây, trước những diễn biến bất ổn gắn với những hoạt động không bình thường của đạo Tin Lành và sự gia tăng các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước trên địa bàn Tây Nguyên, công tác nghiên cứu vấn đề đạo Tin Lành và vấn đề xây dựng củng cố hệ thống Chính trị, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”ở trong vùng được chú ý, tiêu biểu, đáng kể trong những công trình này như:
-Một số vấn đề về tôn giáo và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo ở Tây Nguyên: Sách chuyên khảo của Trần Xuân Dung. NXB Công an nhân dân, 2006, Tác giả đã giới thiệu về tôn giáo và quá trình du nhập, phát triển tôn giáo ở Tây Nguyên. Hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo ở Tây Nguyên và công tác đấu tranh, quan điểm và giải pháp phòng ngừa của Đảng Nhà nước ta với thế lực này.
- Công trình “Đạo Tin Lành ở các dân tộc ít người vùng Nam Trường Sơn- Tây Nguyên” của Đỗ Hữu Nghiêm, công bố năm 1995, ở thành phố Hồ Chí Minh
-Đề tài khoa học “ Nguyên nhân, điều kiện phục hồi và phát triển đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar những năm 1989- 1994” do Công an tỉnh Gia lai thực hiện năm 1995.
-Đề tài khoa học cấp bộ năm 2000 “Về tình hình phát triển đạo Tin Lành ở miền núi phía Bắc Trường Sơn- Tây nguyên”do GS. Đặng nghiêm Vạn làm chủ nhiệm
- Công trình “ Tìm hiểu hệ quả của việc truyền đạo Tin Lành đối với văn hóa tuyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam”của Nguyễn Xuân Hùng, đăng ở tạp chí nghiên cứu tôn giáo số 1 năm 2000
Bên cạnh đó có hàng loạt bài viết về hoạt động chống phá của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên ; một số bài viết về âm mưu đòi thành lập nhà nước “Đề ga”, đạo Tin lành Đề ga, về cuộc bạo động chính trị ở Tây Nguyên trong năm 2001 và 2004 đăng trên các loại ấn phẩm khác nhau, nhiều tờ báo hàng ngày, hàng tháng.
Tóm lại: Là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng trong thế trận an ninh quốc phòng, lại giàu có và hấp dẫn về điều kiện tự nhiên, xã hội, con người, Tây Nguyên đã được nhiều ngành, nhiều giới chú ý, nghiên cứu. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập khá đa dạng đời sống văn hóa- xã hội, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên. Trong các công trình nghiên cứu đó, có những công trình giới thiệu khái quát chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, tình hình hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên một số lĩnh vực như Tôn giáo, vấn đề dân tộc. Có những công trình là tập hợp các bài viết riêng rẽ về các khía cạnh khác nhau về hoạt động “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên. Có công trình mang tính học thuật chuyên sâu và cũng có những công trình mang tính mô tả, giới thiệu một cách khái quát
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặc dù có đề cập một cách rải rác hay riêng rẽ từng khía cạnh, với mức độ nông sâu khác nhau, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào tập trung làm sáng tỏ một cách trọn vẹn đầy đủ về cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên- Thực trạng và giải pháp”. chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống âm mưu và thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng để thực hiện “diễn biến hoà bình” ở Tây Nguyên thời gian gần đây, từ đó đưa ra những dự báo và giải pháp nhằm góp phần đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi vùng Tây Nguyên có những bất ổn khá nghiêm trọng về Chính trị - xã hôi.
Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào đưa vấn đề: “cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên – Thực trạng và giải pháp.”vào công trình với tư cách như là một trong những nội dung nghiên cứu chính yếu của mình.Tuy vậy, cần thấy rằng, những công trình nghiên cứu về cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên đã liệt kê ở trên là những tài liệu tham khảo hết sức quý giá đối với các nghiên cứu về Tây Nguyên sau này, đặc biệt đối với đề tài.
Có thể khẳng đinh rằng, vấn đề:“Cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên- Thực trạng và giải pháp” là vấn đề chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn vẹn và hệ thống như một công trình nghiên cứu độc lập và chuyên sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch ở Tây Nguyên, làm rõ thực trạng cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” ở đây. Đề xuất các giải pháp chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch ở các tỉnh Tây Nguyên.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích vị trí của Tây Nguyên và những âm mưu, hành động mà kẻ thù sử dụng trong quá trình tiến hành “diễn biến hoà bình” ở địa bàn này thời gian qua.
- Phân tích những kết quả đạt được trong cuộc đấu tranh chống chiến lược diễn biến hòa bình ở Tây Nguyên. Rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn.
- Đưa ra những giải pháp cơ bản trong cuộc đấu tranh đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ở Tây Nguyên thông qua “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai trên cơ sở phương luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng.
Ngoài những phương pháp chung, phổ biến trong nghiên cứu lý luậnvề vấn đề dân tộc, giai cấp, tôn giáo, quan hệ quốc tế, về “diễn biến hòa bình”, về vai trò của quần chúng, về công tác dân vận v.v làm cơ sở lý luận, đề tài còn sử dụng phương pháp lịch sử, và lôgic và các phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, khảo sát thực tế, phỏng vấn, đối thoại, tọa đàm, đồng thời kế thừa kết quả các công trình có liên quan.
5. Những đóng góp của đề tài
Những kết quả của công trình sẽ là tài liệu thiết thực cho các nhà nghiên cứu nói chung, đồng thời là tư liệu bổ ích cho các nhà lãnh đạo quản lý trong quá trình hoạch định, xây dựng và triển khai các chính sách về tôn giáo, dân tộc, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở Tây Nguyên, đặc biệt là chính sách đối với các dân tộc thiểu số ở Tây nguyên.
Ngoài ra, những kết quả từ công trình sẽ là nguồn tài liệu cần thiết trong nghiên cứu, giảng dạy ở các viện nghiên cứu, các trường đại học trong nước và khu vực, đặc biệt là trên địa bàn Tây Nguyên
6. Kết cấu của đề tài
Với những mục tiêu nêu trên nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu đề tài được thực hiện với ba chương như sau:
Chương I: Tây Nguyên trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc
Chương II: Đấu tranh chống diễn biến hòa bình ở Tây Nguyên thời gian qua - kết quả và những vấn đề đặt ra.
Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm chống “Diễn biến hòa bình”của chủ nghĩa đế quốc trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

LInk download:
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
W Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân pháp và đế Kiến trúc, xây dựng 0
G Nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn Kinh tế chính trị 0
R Báo dân chúng với cuộc đấu tranh vì dân sinh dân chủ Lịch sử Việt Nam 0
F Vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Việt Nam Văn hóa, Xã hội 0
R Báo chí tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền kinh tế đất nước Văn học 0
D [Free] Luận điểm Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay có xu hướng hòa dịu hơn so với thế kỷ XIX, XX với Tài liệu chưa phân loại 0
T [Free] Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và Tài liệu chưa phân loại 0
N Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền 1945-1946 Tài liệu chưa phân loại 0
R Phân tích cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thời kỳ phục hưng cận đại Tài liệu chưa phân loại 0
H Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền thời kỳ 1945 - 1946 Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top