daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................7
1. Tính cấp thiết...........................................................................................................7
2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................8
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................8
5. Kết cấu đề tài...........................................................................................................8
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ
QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM - GHI HÌNH
1.1 Lịch sử hình thành bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ......10
1.1.1 Trên thế giới..................................................................................................10
1.1.2 Ở Việt Nam ...................................................................................................12
1.2 Khái quát chung về quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình .................14
1.2.1 Khái niệm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình................................14
1.2.2 Đặc điểm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình .................................16
1.2.3 Các khái niệm liên quan ................................................................................17
1.2.3.1 Khái niệm quyền tác giả..........................................................................17
1.2.3.2 Khái niệm quyền liên quan......................................................................18
1.2.4 Phân biệt quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình với quyền ghi âm, ghi
hình........................................................................................................................20
1.2.5 Mối quan hệ giữa nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình với tác giả và các chủ thể
của các quyền liên quan khác .................................................................................20
1.2.5.1 Mối quan hệ giữa nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình với quyền tác giả ...21
1.2.5.2 Mối quan hệ giữa nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình với các chủ thể của
quyền liên quan khác ..........................................................................................24
1.3 Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ......................................25
1.3.1 Khái niệm bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình...........................25
1.3.2 Đặc trưng của sản phẩm ghi âm, ghi hình ......................................................26
1.3.3 Tính tất yếu, sự cần thiết phải bảo hộ quyền quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình ...........................................................................................................27
1.3.4 Tác động của khoa học công nghệ đối với việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình...............................................................................................28
1.4 Một số điều ƣớc quốc tế liên quan đến việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm................................................................................................................29
1.4.1 Công ước Rome về bảo hộ các nhà biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ
chức phát sóng .......................................................................................................29
1.4.2 Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép
không được phép bản ghi âm của họ ......................................................................30
1.4.3 Hiệp ước WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) ....................................31
1.4.4 Hiệp định Trips về khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ..........................................................................................................................32
CHƢƠNG 2
BẢO HỘ QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM - GHI HÌNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAMĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 5 SVTH: Thạch Thị Liễu
2.1 Điều kiện bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ............................34
2.1.1 Chủ thể được bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ......................34
2.1.2 Đối tượng bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình.....................34
2.2 Nội dung quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ..................................35
2.2.1 Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ................................................35
2.2.1.1 Quyền sao chép.......................................................................................36
2.2.1.2 Quyền phân phối.....................................................................................37
2.2.1.3 Quyền được hưởng thù lao......................................................................38
2.2.2 Nghĩa vụ của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ............................................39
2.2.2.1 Nghĩa vụ giao kết hợp đồng bằng văn bản với tác giả hay chủ sở hữu tác
phẩm, người biểu diễn ........................................................................................39
2.2.2.2 Nghĩa vụ ghi tên tác giả, tên người biểu diễn, đảm bảo sự toàn vẹn của tác
phẩm và trả thù lao .............................................................................................40
2.3 Căn cứ xác lập quyền, thời hạn bảo hộ của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
..................................................................................................................................41
2.3.1 Căn cứ phát sinh quyền .................................................................................41
2.3.2 Thời hạn bảo hộ.............................................................................................42
2.4 Đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình........................43
2.4.1 Khái niệm của việc đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình........................................................................................................................43
2.4.2 Mục đích của việc đăng ký ............................................................................44
2.4.3 Chủ thể nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
...............................................................................................................................45
2.4.4 Quy trình đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ........46
2.4.4.1 Hồ sơ đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình........46
2.4.4.2 Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình ...........................................................................................47
2.4.4.3 Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản
ghi âm, ghi hình..................................................................................................48
2.4.4.4 Hiệu lực cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình ....................................................................................................................48
2.4.4.5 Đăng bạ và đăng ký bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình......48
2.4.4.6 Các trường hợp cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký bảo
hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình .................................................48
2.5 Chuyển giao quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình.............................49
2.5.1 Chuyển nhượng quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình .......................50
2.5.2 Chuyển quyền sử dụng quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ............51
2.6 Giới hạn quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ...................................52
2.6.1 Các trường hợp sử dụng quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình không
phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao..............................................52
2.6.2 Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao............................................................................................53
2.7 Các hành vi xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ...........55
2.8 Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền đối với bản ghi âm, ghi hình .......58
2.9 Các biện pháp bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình............... 59
2.9.1 Quyền tự bảo vệ của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ................................... 59
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 6 SVTH: Thạch Thị Liễu
2.9.2 Biện pháp pháp lý................................................................................................. 60
2.10 Các biện pháp xử lý đối với hành vi xâm phạm .............................................60
2.10.1 Biện pháp dân sự................................................................................................ 61
2.10.2 Biện pháp hành chính......................................................................................... 61
2.10.3 Biện pháp hình sự............................................................................................... 63
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG BẢO HỘ
QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM - GHI HÌNH
TẠI VIỆT NAM
3.1 Thực trạng bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình tại Việt Nam
..................................................................................................................................65
3.1.1 Thực trạng làm băng đĩa lậu trái phép ................................................................ 65
3.1.2 Thực trạng xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình trên
Internet...................................................................................................................67
3.2 Công nghệ kỹ thuật số và Internet ....................................................................69
3.2.1 Vụ kiện Hiệp hội thu thanh Mỹ (RIAA) - Napster ............................................ 69
3.2.2 Vụ kiện của Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV) và Nokia.......... 73
3.3 Nguyên nhân của thực trạng vi phạm bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình..............................................................................................................75
3.4 Một số kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả công tác bảo hộ quyền của nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình .................................................................................80
3.4.1 Áp dụng các biện pháp công nghệ trong việc bảo vệ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình ...................................................................................................... 80
3.4.2 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình.............................................................................................. 81
3.4.3 Tăng cường thực thi quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình.................. 82
3.4.4 Nâng cao chất lượng thông tin về bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình ................................................................................................................................. 83
3.4.5 Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến pháp luật, vai trò của
Tòa án............................................................................................................................. 84
3.4.6 Nâng cao hơn nửahiệu quả hoạt động các tổ chức quản lý tập thể ................... 85
3.4.7 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản
ghi âm, ghi hình ............................................................................................................. 86
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 7 SVTH: Thạch Thị Liễu
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy sự
sáng tạo, phát triển nền kinh tế, văn hóa và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội
nhập quốc tế của mỗi quốc gia.
Suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, tri thức luôn là một trong
những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin
và công nghệ kỹ thuật số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi mặt của đời
sống xã hội thì ngày càng tạo ra nhiều mặt trái song song tồn tại.
Ở Việt Nam hiện nay, thị trường băng đĩa lậu được báo động về tình trạng nhập
lậu, sao chép tùy tiện không phép đã gây thiệt hại rất lớn cho chủ sở hữu các bản ghi
âm, ghi hình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các nhà sản xuất, làm
thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Đồng thời, ảnh hưởng đến chính sách đầu
tư phát triển sản phẩm trí tuệ của Nhà nước. Tình trạng sao chép trái phép này ngày
càng tinh vi, hiện đại và càng lúc càng trở nên phổ biến và có dấu hiệu gia tăng cùng
với sự phát triển của khoa học công nghệ. Đặc biệt là sự xuất hiện của Internet đã tạo
nên một cạnh tranh rất lớn đối với ngành công nghiệp ghi âm Việt Nam.
Điều này đã tạo một thách thức vô cùng to lớn cho nước ta, do đó việc bảo hộ
quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình đang là mục tiêu cấp thiết. Bảo hộ tốt
quyền này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta đi lên,
nhất là vững chắc trên trường quốc tế. Xuất phát từ đó chúng ta phải có những biện
pháp bảo hộ thích đáng quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, từ đó khuyến
khích hoạt động sản xuất của họ, phục vụ đời sống tinh thần của xã hội. Đó cũng là
điều kiện để nền văn hóa phong phú, đặc sắc và lâu đời của dân tộc được giữ gìn, phát
huy và giới thiệu đến thế giới.
Việc ghi nhận và bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ở Việt Nam
dường như vẫn là một vấn đề mới mẻ. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang
dành sự quan tâm đặc biệt tới việc bảo hộ quyền này. Cụ thể Việt Nam đã tham gia các
Công ước như: Công ước Ganeva về bảo hộ sản xuất ghi âm chống việc sao chép
không được phép bản ghi âm của họ; Công ước Rome về bảo hộ người người biểu
diễn, nhà sản xuất ghi âm, tổ chức phát sóng; Hiệp ước WIPO về biểu diễn và bản ghi
âm (WPPT), Hiệp định Trips về khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ.
Chính vì những lý do trên và với sự quan tâm đến vấn đề này, người viết đã chọn
đề tài “BẢO HỘ QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM – GHI HÌNH
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 8 SVTH: Thạch Thị Liễu
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM” để làm đề tài nghiên cứu hoàn thành chương trình
tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài viết mang tính chất tìm hiểu, hướng tới việc làm rõ cơ sở lý luận của việc bảo
hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Đồng thời tập trung nghiên cứu, phân
tích các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh quyền của nhà sản xuất bản ghi âm,
ghi hình ở Việt Nam qua đó phản ánh thực tiễn áp dụng các quy định này trên thực tế
và nêu lên thực trạng vi phạm trong lĩnh vực ghi âm, ghi hình ở nước ta hiện nay. Trên
cơ sở đó, đối chiếu, so sánh để tìm ra những vướng mắc để đề xuất đưa ra một số kiến
nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật đối với việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình; nâng cao khả năng thực thi của chúng; bảo hộ có hiệu quả quyền
của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Dù là chuyện rất khó nhưng người viết hy vọng
rằng trong tương lai tình trạng xâm phạm loại quyền này trong tương lai sẽ được loại
trừ triệt để.
3. Phạm vi nghiên cứu
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là một trong những quyền liên quan
đến quyền tác giả, do vậy đây là một nội dung nghiên cứu tương đối hẹp. Song, với
yêu cầu của bài viết cùng với sự hạn chế của kiến thức, kinh nghiệm, thời gian cũng
như nguồn tài liệu ít ỏi nên trong bài viết người viết nghiên cứu tập trung vào việc làm
rõ các quy định Pháp Việt Nam về quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và
xem xét tình hình thực thi trên thực tế các quy định này. Qua đó nêu lên những điểm
bất cập để từ đây tìm ra nguyên nhân và đề xuất hướng hoàn thiện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Người viết dựa trên nguyên tắc xem xét sự vật một cách toàn diện để làm sáng tỏ
những bản chất của vấn đề có liên quan. Ngoài ra, người viết còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội nói chung, khoa học pháp lý nói riêng để
nghiên cứu, đánh giá, kết luận về một vấn đề cụ thể, đó là các phương pháp: lịch sử, hệ
thống, so sánh, phân tích và tổng hợp. Các phương pháp này được kết hợp nhằm làm
rõ các quy định của pháp luật thực định, nhìn nhận, đánh giá chúng trong mối liên hệ
với pháp luật quốc tế cũng như trong thực tiễn áp dụng.
5. Kết cấu đề tài
Luận văn bao gồm các phần: mở đầu, nội dung và kết luận, trong đó phần nội
dung gồm có 3 chương:
Chƣơng 1. Lý luận chung về bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hìnhĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 9 SVTH: Thạch Thị Liễu
Chƣơng 2. Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình theo pháp luật
Việt Nam
Chƣơng 3. Thực trạng bảo hộ và những giải pháp nhằm tăng cường bảo hộ
quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 10 SVTH: Thạch Thị Liễu
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ
QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM - GHI HÌNH
Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình - đây là một lĩnh vực mới
đối với nước ta. Ở các nước, người ta đưa các quyền này vào luật quyền tác giả từ lâu
và người ta gọi là quyền kề cận, vì tổ chức này tuy không phải là người trực tiếp tạo ra
tác phẩm nhưng họ lại có sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm, không có họ thì tác
phẩm không thể đến với đông đảo công chúng, và việc bảo hộ tốt quyền lợi của họ tức
là gián tiếp bảo hộ quyền tác giả. Hơn nữa, hiện nay những nhà sản xuất bản ghi âm,
ghi hình này lại đang phải đối mặt với những tổn thất rất lớn do nạn xâm phạm bản
quyền. Vì vậy, bảo hộ những nhà sản xuất chân chính, những người đã thực sự phải bỏ
công sức, tiền bạc ra trước các đối thủ cạnh tranh, chống các hành vi xâm phạm thành
quả của người khác bằng việc sao chép bất hợp pháp băng đĩa ghi âm, ghi hình là điều
tất yếu.
1.1 Lịch sử hình thành bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
1.1.1 Trên thế giới
Những ý tưởng đầu tiên nhằm vào bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm đã dựa trên cơ
sở bảo hộ bản quyền tác giả. Ý tưởng về bảo hộ quyền tác giả chỉ được bắt đầu kể từ
khi sáng chế ra công nghệ in ấn cho phép các tác phẩm văn học được nhân bản nhờ các
tiến trình cơ khí thay cho việc sao chép bằng tay. Điều này dẫn đến sự ra đời của một
nền thương mại mới. Đó là thương mại của những thợ in ấn và những người bán sách,
mà người ta gọi là “người bán văn hóa phẩm”. Những người này đã đầu tư khoản tiền
đáng kể vào việc mua giấy, xây dựng nhà máy in và việc thuê lao động. Trong trường
hợp này, do không có hình thức nào chống việc cạnh tranh mua bán các bản sao, việc
đầu tư in ấn và mua bán sách là một việc đầu tư mạo hiểm và nhiều người đã bị phá
sản. Những yêu cầu bức bách đã hình thành một dạng bảo hộ đặc quyền do những cơ
quan quyền lực ban cho.1
Từ khi hệ thống bảo hộ quyền tác giả ra đời đã nảy sinh ra một câu hỏi: vậy
quyền tác giả bảo hộ ai, bảo hộ cái gì? Đây là một vấn đề khó trả lời, vì như chúng ta
đã biết, để đưa tác phẩm của mình tới công chúng, tác giả cần dựa vào một lớp
người trung gian. Nhà viết kịch không thể không nhờ đến diễn viên để đưa vở kịch của
mình lên sân khấu, nhà soạn nhạc phải dựa vào ca sĩ, nhạc công để thể hiện tác phẩm
của mình. Những nhà sản xuất chính là những người đầu tư công sức, tiền bạc trong
việc định hình tác phẩm, việc ghi âm, ghi hình đã góp phần mạnh mẽ trong việc đưa
1 TS.LS Lê Xuân Thảo, Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, Nxb Tư pháp Hà nội, 2005, tr 23.Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 11 SVTH: Thạch Thị Liễu
tác phẩm đến công chúng và qua đó làm cho công chúng biết đến tác giả. Và đã đến
lúc trợ thủ đó cũng đòi hỏi cho mình được hưởng sự bảo hộ, không có họ tác phẩm
không thể đến với công chúng được.2
Hơn nữa, kể từ khi hệ thống bảo hộ quyền tác giả ra đời, các loại hình tác phẩm
được bảo hộ dưới dạng quyền tác tác giả ngày một tăng, cùng với sự phát triển của
phương tiện lưu trữ, truyền thông. Ban đầu là tác phẩm viết, tác phẩm sân khấu, rồi
đến tác phẩm điện ảnh, video, âm nhạc… Điều đó có nghĩa là các loại hình tác phẩm
của tác giả sáng tác ra ngày càng nhiều và cùng với sự phát triển của xã hội cần thiết
phải bảo hộ các quyền liên quan của tác giả để hạn chế những hành vi xâm phạm
quyền tác giả và trong đó có quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Sự ra đời và
phát triển không ngừng của khoa học công nghệ kỹ thuật là con dao hai lưỡi đối với sự
phát triển của ngành công nghiệp ghi âm lúc bấy giờ. Một mặt, nó khiến cho các bản
ghi âm được sản xuất ra với số lượng lớn và chất lượng tốt hơn trước nhiều lần, là
động lực thúc đẩy ngành công nghiệp giàu tiềm năng này phát triển. Tuy nhiên, chính
những thành tựu đó lại tạo ra các bản sao trái phép trở lên dễ dàng hơn, với chi phí
thấp hơn.
Do vậy, để nền công nghiệp ghi âm có thể tồn tại và phát triển, yêu cầu cấp thiết
được đặt ra là phải hình thành một cơ chế bảo hộ đối với đối tượng này không chỉ ở
mỗi quốc gia mà trên phạm vi khắp thế giới. Điều này là có cơ sở, bởi lẽ cũng như
những quyền liên quan khác, quyền của các nhà sản xuất bản ghi âm có mối quan hệ
chặt chẽ với bản quyền tác giả. Hơn nửaở thời điểm này, Công ước Berne đã ra đời và
sớm khẳng định vai trò nền tảng đối với việc bảo hộ quyền tác giả trên phạm vi quốc
tế. Cho nên, thiết lập mối quan hệ với bản quyền tác giả là điều hợp lý.
Năm 1934, tổ chức CISAC – Hiệp hội các Nhà soạn nhạc và soạn lời quốc tế3
cùng Liên đoàn quốc tế về công nghiệp thu thanh đã hợp lại và yêu cầu trong những
lần sửa đổi sắp tới của Công ước Berne việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
phải được đề xuất trong Phụ lục kèm theo Công ước.
Sau đó, các tổ chức này đã hợp tác tích cực với Văn phòng của Liên hiệp quốc đề
ra dự thảo về việc xây dựng một Điều ước đa phương bảo hộ quyền liên quan trong đó
có quyền của nhà sản xuất bản ghi âm. Đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, các
chuyên gia của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới - WIPO,4 Tổ chức Giáo dục, Khoa học
2 TS. LS. Lê Xuân Thảo, Đổi mới và hoàn hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ , Nxb Tư pháp Hà Nội, 2005, tr 26.
3 The International Confederation of Societies of Authors and Composers (CISAC).
4 World Intellectual Property Organization.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 12 SVTH: Thạch Thị Liễu
và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc - UNESCO,5 Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO6 đã
gặp nhau tại Lahay và đưa ra dự thảo Công ước. Ngày 26/10/1961, Công ước Rome -
Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát
sóng đã được thông qua tại Rome. Cùng với Công ước Berne, Công ước Rome ra đời
là cơ sở cho sự hình thành nhiều Điều ước quốc tế đa phương và song phương quan
trọng khác, là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản
ghi âm trên thế giới.
Ở các nước theo truyền thống pháp lý Anglo – Xacxon họ nghiên về việc bảo hộ
những người truyền bá tác phẩm bằng tác giả. Ở nước Anh và Hoa Kỳ, nơi có nền
công nghiệp đĩa hát phát triển mạnh mẽ, họ coi bản ghi âm là tác phẩm và được bảo hộ
như quyền tác giả. Còn ở Pháp, trong Luật quyền tác giả công bố ngày 03/07/1985 bên
cạnh quyền tác giả có ghi quyền kề cận, quyền kề cận này bảo hộ các quyền cho nhà
sản xuất băng nhạc, đĩa CD.7
1.1.2 Ở Việt Nam
Ở Việt Nam quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được đặt ra chậm hơn
nhiều so với sự phát triển của các quan hệ sở hữu trí tuệ khác và rất chậm so với thế
giới. Trên thực tế, ngay từ trước năm 1992, một loạt các văn bản liên quan đến sở hữu
trí tuệ lần lượt ra đời trong đó có Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả ngày 10/02/1994, tại
chương IV của Pháp lệnh có quy định về tổ chức sản xuất hàng băng âm thanh, đĩa âm
thanh, băng hình đĩa hình - đây là văn bản đầu tiên ở Việt Nam về bảo hộ quyền nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình, trước đó có nghị định 142 của Hội đồng Bộ trưởng ngày
14/11/1986 quy định về quyền tác giả nhưng không quy định về quyền nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình. Tuy nhiên do văn bản được ban hành từ Hiến pháp 1992, nên
vẫn còn những bất cập giữa cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ bao cấp
và cơ chế bảo hộ trong nền kinh tế thị trường.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu giải trí của con người ngày càng tăng cao
đòi hỏi một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ
8, quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Chính thức thiết lập chế độ pháp lý cao nhất cho việc xác lập, bảo hộ và
thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (phần thứ sáu và thứ bảy của Bộ luật Dân sự
cũng có quy định về việc bảo hộ tổ chức sản xuất băng đĩa ghi âm, ghi hình). Bộ luật
Dân sự 1995 chỉ dành 2 Điều là Điều 776 và 777 để điều chỉnh quyền này. Văn bản
5 United Nations Educational Scientific and Cultural Organization.
6 International Labour Organization.
7 TS. LS. Lê Xuân Thảo, Đổi mới và hoàn hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, Nxb Tư pháp Hà Nội, 2005, tr 27.Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 13 SVTH: Thạch Thị Liễu
tiếp theo là Quyết định số 55/1999/QĐ-BVHTT ngày 5/8/1999 ban hành quy chế sản
xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu hành, kinh doanh băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng
hình, đĩa hình ca nhạc, sân khấu.
Sau này để phù hợp với tình hình mới của đất nước, Quốc hội đã tiếp tục sửa đổi
một số điều của Bộ luật Dân sự ngày 14/06/2005 và quy định rõ hơn về quyền của nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Cũng thời điểm đó, ngày 12/12/2005 Việt Nam chính
thức ban hành Luật Sở hữu trí tuệ nhằm tạo hành lang pháp lý cho những đối tượng
của Sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được quy định
rất cụ thể.
Như vậy, việc nghiên cứu về lĩnh vực này mới chỉ thực sự được quan tâm
khoảng 15-20 năm trở lại đây, khi Nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế. Tuy
vậy, chúng ta cũng đã xây dựng được một khung pháp lý khá đầy đủ về lĩnh vực này.
Cụ thể nó đã được quy định trong các văn bản sau đây:
- Bộ luật Dân sự 2005;
- Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009;
- Luật Hải quan 2001 sửa đổi, bổ sung 2005;
- Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009;
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung các năm 2007,
2008;
- Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền
liên quan;
- Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý
Nhà nước về sở hữu trí tuệ;
- Nghị định 97/2008/NĐ-CP ngày 28/08/2008 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet;
- Nghị định 47/2009/NĐ-CP ngày 13/05/2009 quy định xử phạt vi phạm hành
chính về quyền tác giả, quyền liên quan;
- Nghị định 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý Nhà
nước về sở hữu trí tuệ;
- Nghị định 85/2011/NĐ-CP của Chính phủ 20/9/2011 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 14 SVTH: Thạch Thị Liễu
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác
giả và quyền liên quan;
- Nghị định 109/2011/ NĐ-CP ngày 02/12/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều
Nghị định 47/2009/NĐ-CP ngày 13/05/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính về
quyền tác giả, quyền liên quan;
- Thông tư của Bộ thông tin và truyền thông số 05/2008/TT-BTTTT ngày
12/11/2008 về hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang
thông tin điện tử cá nhân trong Nghị định 97/2008/NĐ-CP ngày 28/08/2008 của Chính
phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet;
- Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao
– Bộ Công An – Bộ Tư pháp số 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 29/02/2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ;
- Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao
– Bộ Văn hóa, Thể thao Và Du lịch – Bộ Khoa học Công nghệ – Bộ Tư pháp số
02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKHCN-BTP ngày 03/04/2008
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp
về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân;
- Quyết định của Bộ Văn hóa – Thông tin số 88/2006/QĐ-BVHTT ngày
17/10/2006 về việc ban hành các mẫu tờ khai, Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả,
quyền liên quan;
- Chỉ thị của Thủ Tướng Chính Phủ số 36/2008/CT-TTg ngày 31/12/2008 về việc
tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
1.2 Khái quát chung về quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
1.2.1 Khái niệm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
Theo Điều 2(d) Hiệp ước WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) 1996: “nhà
sản xuất bản ghi âm là cá nhân hay pháp nhân khởi xướng và có trách nhiệm đối với
việc định hình lần đầu tiên những âm thanh biểu diễn hay những âm thanh khác,
hay sự tái hiện lại của những âm thanh đó”.
Điều 2(b) Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao
chép không được phép bản ghi âm của họ 1971 và Điều 3(c) Công ước Rome về bảo
hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng 1961 đều quy định:
nhà sản xuất bản ghi âm là một cá nhân hay pháp nhân định hình lần đầu các âm
thanh của buổi biểu diễn hay các âm thanh khác.Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 15 SVTH: Thạch Thị Liễu
Cơ bản khái niệm về nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình của Việt Nam giống với
Công ước Geneva và Công ước Rome. Theo khoản 3 Điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
sửa đổi, bổ sung 2009 quy định: “nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là tổ chức, cá
nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hay các âm thanh,
hình ảnh khác”. Có nghĩa là sản phẩm mà nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình tạo ra
phải là bản gốc của tác phẩm, là sự hiện thân nguyên bản âm thanh, hình ảnh của một
buổi biểu diễn trực tiếp hay bất kỳ một âm thanh, hình ảnh nào khác mà không được
lấy lại từ một bản ghi âm, ghi hình có trước.
Như vậy, các âm thanh, hình ảnh khác trong quy định này có thể được hiểu là âm
thanh, hình ảnh không liên quan đến quyền tác giả, ví dụ một người ghi tiếng chim kêu,
vượn hót, hình hươu, nai nhảy múa trong rừng, tiếng nước chảy… thì theo khoản 3
Điều 16 được bảo hộ theo quyền liên quan.
Các bản ghi âm có thể chỉ ghi riêng phần nhạc, riêng phần lời hay cả phần nhạc
và phần lời. Để được phép ghi âm, ghi hình người muốn ghi âm, ghi hình phải được sự
cho phép của cả chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm phần nhạc cũng như
chủ sở hữu quyền tác giả đối với phần lời bài hát. Một số quốc gia còn quy định, người
ghi âm cũng phải được phép của các nghệ sĩ trình bày phần nhạc và hát phần lời.
Mặt khác, luật không định nghĩa thế nào là bản ghi hình nên không thể xác định
được đối tượng bảo hộ, bởi vậy có thể nhầm lẫn bản ghi hình với tác phẩm điện ảnh
theo quy định tại Điều 14 Nghị định 100/2006/NĐ-CP: “Tác phẩm điện ảnh và tác
phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 14 của
Luật Sở hữu trí tuệ là những tác phẩm được hợp thành bằng hàng loạt hình ảnh liên
tiếp tạo nên hiệu ứng chuyển động kèm theo hay không kèm theo âm thanh, được thể
hiện trên một chất liệu nhất định và có thể phân phối, truyền đạt tới công chúng bằng
các thiết bị kỹ thuật, công nghệ, bao gồm loại hình phim truyện, phim tài liệu, phim
khoa học, phim hoạt hình và các loại hình tương tự khác”.
Để tránh việc đồng nhất bản ghi âm, ghi hình với tác phẩm điện ảnh và cũng để
minh họa cho quy định tại khoản 3 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ, khoản 6 Điều 4
Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết: “Bản ghi âm, ghi hình là bản định hình
các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hay các âm thanh, hình ảnh khác hoặc
việc định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định
hình gắn với tác phẩm điện ảnh hay tác phẩm nghe nhìn khác”. Như quy định này đã
tạo ra một thuật ngữ mới, đó là tác phẩm nghe nhìn và tác phẩm nghe nhìn khác, cần
lưu ý rằng Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định 100/2006/NĐ-CP không định nghĩa tác
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 16 SVTH: Thạch Thị Liễu
phẩm nghe nhìn. Sau nữa, quy định chi tiết này cũng không thể cho biết bản ghi hình
một trận đấu thể thao được bảo hộ theo cơ chế nào.8
Cũng cần bàn thêm là khi đưa bản ghi hình là một đối tượng của quyền liên quan,
luật đã đưa thêm một đối tượng mới vào phạm vi bảo hộ đó là “bản ghi hình”, mà cho
đến nay chưa có một Điều ước quốc tế nào quy định – đó là sự khác biệt giữa luật Việt
Nam và các Điều ước quốc tế. Sở dĩ có sự khác biệt trên là do bản thân thuật ngữ “bản
ghi âm” trong các Điều ước quốc tế nó đã bao hàm cả bản ghi hình trong đó, ví dụ bản
ghi âm của một cuộc biểu diễn nó bao gồm cả âm thanh và hình ảnh của người nghệ sĩ
trong đó. Hơn nữa, sự khác biệt đó cũng xuất phát từ quan niệm, văn hóa, lịch sử…
của mỗi quốc gia.
Như vậy, chỉ được coi là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi người đó thực
hiện việc định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của buổi biểu diễn hay âm thanh, hình
ảnh khác. Việc định hình âm thanh, hình ảnh này, có thể được thực hiện trên băng đĩa
hay trong bộ nhớ số. Chẳng hạn Bến Thành Audio đã tổ chức việc định hình âm lần
đầu chương trình ca nhạc Làn Sóng Xanh. Bến Thành Audio là nhà sản xuất bản ghi
âm đối với chương trình ca nhạc này.
Tóm lại : quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là tổng thể các quy phạm
quy định và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình đối
với các chương trình ghi âm, ghi hình dựa trên tác phẩm gốc của chủ sở hữu quyền tác
giả.
1.2.2 Đặc điểm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
Cũng như các quyền liên quan khác, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
có hai đặc điểm sau:9
- Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình cũng được hình thành dựa trên
việc sử dụng một tác phẩm gốc. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình tổ chức thu âm, thu
hình buổi biểu diễn của các nghệ sĩ, nhưng các nghệ sĩ này lại phải dùng những bài hát
của những nhạc sĩ khác để trình diễn. Như vậy, xét cho đến cùng quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình cũng được hình thành dựa trên việc sử dụng một tác phẩm
gốc. Do đó, chủ thể quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình phải có nghĩa vụ tôn
trọng quyền nhân thân và quyền tài sản không chỉ của người biểu diễn mà cả của tác
8 TS. Trần Văn Hải, Những bất cập trong quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về quyền tác
giả, quyền liên quan, Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2010, E1 %BA%A5tc% E1%BA%ADp-trong-quy-d%E1%BB%8Bnhc%E1%BB%A7a-php-lu%E1%BA%ADt-s% E1 %BB%9Fh% E 1%BB%AFu-tr-tu%E1%BB%87-vi%E1%BB%87t-nam-hi%E1%BB%87n-hnh-v% E1% BB %81-quy/,
[truy cập ngày 04/01/2012].
9 TS. Lê Nết, Tài liệu giảng dạy sở hữu trí tuệ, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr 72.Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 17 SVTH: Thạch Thị Liễu
giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc. Việc công nhận và bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình không được làm ảnh hưởng quyền đối với tác giả của tác phẩm.
- Chương trình ghi âm, ghi hình cũng phải có tính nguyên gốc nghĩa là do chính
công sức của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình tạo ra và là bản ghi âm, ghi hình đầu
tiên. Ví dụ: chương trình ca nhạc Làn Sóng Xanh là do công sức của Trung tâm Băng
nhạc Bến Thành Audio dàn dựng. Việc sao chép băng đĩa chương trình này mà không
có sự đồng ý của chủ thể trên là xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình.
1.2.3 Các khái niệm liên quan
1.2.3.1 Khái niệm quyền tác giả
Tác phẩm là sự kết tinh lao động sáng tạo của tác giả. Do đó, quyền của tác giả
đối với tác phẩm cần được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Quyền của tác giả đối với tác
phẩm được xem là một loại quyền tài sản nằm trong phạm vi các loại tài sản được quy
định trong Bộ luật Dân sự 2005. Cụ thể được quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự
2005. Mỗi tài sản điều có chủ sở hữu xác định và có thể chuyển giao trong giao lưu
dân sự. Các quyền đối với tác phẩm cũng vậy. Cũng cần xác định chủ sở hữu của
chúng và chuyển giao trong giao lưu dân sự như thế nào?
Khái niệm về quyền tác giả được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2005 và
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.
Bộ luật Dân sự quy định: “đối tượng quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng
tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức
và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc
vào bất kỳ thủ tục nào”.10
Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với tác phẩm do mình sáng tạo ra hay sở hữu”.11 Như vậy, quyền tác giả được trao
cho hai loại chủ thể: tác giả và chủ sở hữu.
Tóm lại: quyền tác giả là quyền mà pháp luật ban cho người đã sáng tạo ra tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (như sách, bài giảng, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm
sân khấu, tác phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình và mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp
ảnh, tác phẩm kiến trúc, phần mềm máy tính). Quyền này được hiểu là quyền cho phép
và quyền nhận thù lao. Quyền cho phép có nghĩa là quyền tự quyết định cho phép
người khác khai thác, sử dụng tác phẩm của mình và quyền nhận thù lao có nghĩa là
quyền yêu cầu người khác trả thù lao cho việc khai thác, sử dụng tác phẩm.
10 Điều 737 Bộ luật Dân sự 2005.
11 Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 18 SVTH: Thạch Thị Liễu
Quyền tác giả tự động phát sinh từ thời điểm tác phẩm được định hình dưới một
hình thức vật chất nhất định, bất kể tác phẩm đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký
hay chưa đăng ký. Tác phẩm, theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, phải là sản
phẩm của lao động trí tuệ của tác giả mà không đơn thuần chỉ là sự sao chép từ các
nguồn đã biết.
Quyền tác giả được hiểu như là một nhóm các quyền, gồm các quyền nhân thân
và các quyền tài sản. Các quyền tài sản được gọi là độc quyền khai thác hay cho
người khác khai thác tác phẩm của chủ sở hữu quyền tác giả. Các quyền nhân thân
(ngoại trừ quyền công bố tác phẩm) được bảo hộ vô thời hạn. Với đa số các loại hình
tác phẩm, các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm được bảo hộ là suốt cuộc đời
tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết.
Theo quy định của pháp luật, quyền tác giả bao gồm: quyền nhân thân và quyền
tài sản
- Quyền nhân thân bao gồm: đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hay bút danh
trên tác phẩm; được nêu tên thật hay bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
công bố tác phẩm hay cho phép người khác công bố tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn của
tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hay xuyên tạc tác phẩm dưới bất
kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.12
- Quyền tài sản bao gồm: làm tác phẩm phái sinh; truyền đạt tác phẩm đến công
chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hay bất kỳ
phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hay bản sao tác phẩm điện ảnh,
chương trình máy tính.13
1.2.3.2 Khái niệm quyền liên quan
Hiện nay, khái niệm về quyền liên quan được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân
sự 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.
Bộ luật Dân sự quy định: “đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây
gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi
âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu mang chương trình được mã hóa”.14
Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là
quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu mang chương trình được mã hóa”.15
12 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.
13 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.
14 Điều 744 Bộ luật Dân sự 2005.
15 Khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 19 SVTH: Thạch Thị Liễu
Như vậy, quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu mang chương trình được mã hóa. Các quyền của ba chủ thể nói trên
(người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình, tổ chức phát sóng) được gọi là
quyền liên quan vì chúng bổ sung và tồn tại song song với quyền tác giả, giúp tác giả
thể hiện nội dung tác phẩm. Nói cách khác, đó là quyền của những người trung gian,
làm cầu nối giữa tác giả và công chúng.
Để một tác phẩm đến được với công chúng ví dụ một bản nhạc và được công
chúng đánh giá cao, đôi khi cần có sự giúp sức của một số người có khả năng thể
hiện tác phẩm ví dụ ca sĩ và các nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
Các chủ thể đó sẽ được bảo hộ dưới dạng quyền liên quan. Quyền liên quan là tổng
hợp các quy phạm quy định và bảo vệ quyền nhân thân, quyền tài sản của người biểu
diễn; quyền tài sản của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, của tổ chức phát thanh,
truyền hình đối với các chương trình được thực hiện dựa trên tác phẩm gốc của chủ sở
hữu quyền tác giả. Ví dụ: một chương trình ca nhạc của một ca sĩ, một buổi phát sóng
của đài truyền hình là những đối tượng bảo hộ của quyền liên quan.
Tóm lại: quyền liên quan là quyền của những người tham gia vào việc thể hiện,
định hình, đưa tác phẩm đến công chúng. Chủ sở hữu quyền liên quan có thể là người
biểu diễn, người đầu tư để thực hiện cuộc biểu diễn, người đầu tư để tạo ra bản ghi âm,
ghi hình, tổ chức phát sóng… Quyền tác giả và các quyền liên quan được bảo hộ một
cách riêng biệt. Vì vậy, mỗi quyền cần có sự cho phép riêng. Ví dụ: như khi thực hiện
sao chép một bản ghi âm, ghi hình người sử dụng không những cần xin phép người
soạn nhạc và người viết lời bài hát (là người sở hữu quyền tác giả) mà còn phải được
sự đồng ý của cả người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình (là người sở
hữu quyền liên quan).
Quyền của người biểu diễn được bảo hộ 50 năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc
biểu diễn được định hình. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ
50 tính từ năm tiếp theo năm công bố hay 50 kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi
hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố. Quyền của tổ chức
phát sóng được bảo hộ 50 năm tính từ năm tiếp theo năm chương trình phát sóng được
thực hiện.
Thời hạn bảo hộ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm
dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan.
Bên cạnh đó, các cửa hàng bán băng nhạc, nhưng thực chất là cửa hành sao in lậu
băng nhạc, lại phát triển tràn lan, có giấy phép hay không có giấy phép, điều hoạt
động ngang nhiên và sao lậu nguyên cả chương trình hay trích những bài hay của
nhiều băng để in vào một băng gọi là chương trình chọn lọc hay in sao theo yêu cầu
của khách hàng. Hành vi đó là vi phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình,
thu lời bất chính, vì họ mua băng trắng giá rẻ, không phải trả tiền cho ca sĩ, nhạc sĩ,
không phải đóng thuế, nên giá bán hạ hơn các đơn vị sản xuất băng nhạc hợp pháp.
Chính vì không có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn chủ thể xâm phạm quyền. Dẫn
đến việc các nhà sản xuất bị thua lỗ, càng sản xuất nhiều càng lỗ. Số lượng băng nhạc
bị mất bản quyền lên tới 70%, có đơn vị sản xuất còn bị mất cao hơn.70
Nạn in sao băng đĩa lậu luôn thường trực ở mức báo động, sản phẩm bất hợp
pháp này được sản xuất, kinh doanh khi thì lén lút khi thì công khai. Chỉ cần thấy tín
hiệu một sản phẩm nào đó ăn khách thì vài giờ sau đó đã bị in sao và tràn lan trên thị
trường.
Hiện nay, mọi người có thể dễ dàng tìm mua các loại băng đĩa lậu vì chúng được
bày bán rất công khai. Không chỉ phổ biến ở các cửa hàng, băng đĩa lậu mà còn cùng
những người bán dạo có mặt khắp nơi, đặc biệt là nhưng nơi tập trung đông người
như: khu vực bến xe, nhà ga, chợ, công viên...
Điều này được coi là bất thường, vì mọi năm các hoạt động in sang này được
thực hiện rất lén lút. Chính vì sự bùng phát việc in sang lậu, mua bán đĩa sao chép…
đã dẫn đến việc công tác kiểm tra, xử phạt của các lực lượng, ban ngành quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực băng đĩa trở nên khó khăn hơn. Đặc biệt, vào những ngày đầu năm
2010, Công an TP.Hồ Chí Minh đã phát hiện được một nơi sản xuất, kinh doanh và
chứa băng đĩa lậu lớn nhất từ trước đến nay, tại nhà số 84 và 86 đường số 7, phường
Tân Kiểng, quận 7, do Lê Thanh Vũ làm chủ và nhà kho số 360B đường Bến Vân
Đồn, quận 4. Điều đáng nói là tại những địa điểm trên, lực lượng công an đã phát hiện
được cả một dây chuyền sản xuất đĩa CD, VCD, DVD hoàn chỉnh. Việc này cho thấy
sản xuất đĩa lậu đã ngày càng trở nên quy mô. Theo ước tính của các đơn vị chức
năng, đường dây sản xuất kinh doanh đĩa lậu nói trên chiếm từ 50% đến 60% thị
trường đĩa lậu tại TPHCM.71
Phổ biến nhất là thực trạng đối tượng sao chép lậu đã sử dụng đĩa trắng (CD –R
(Compact Disc - Recordable drive)) sao chép, nhân bản hàng loạt các chương trình ca
70 TS. LS. Lê Xuân Thảo, Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, Nxb Tư pháp Hà Nội, 2005, tr 197
71
Mai Phương, Băng đĩa lậu vô tư xuống phố, Petrotimes, , [truy cập ngày 28/02/2012].Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 67 SVTH: Thạch Thị Liễu
nhạc do các hãng băng đĩa sản xuất. Điều này đã gây thiệt hại rất lớn cho chủ sở hữu
hợp pháp, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngành công nghiệp ghi âm mỗi nước.
Riêng với những nhà sản xuất kinh doanh băng đĩa chân chính, không ai dám
mạnh dạn đầu tư cho ra đời những sản phẩm nghệ thuật chất lượng cao vì không thể
cạnh tranh nổi với băng đĩa lậu. Để cho ra đời một đĩa nhạc, các nhà sản xuất họ phải
đầu tư từ nhuận bút, tác giả, phối khí, nguyên liệu đầu vào, đầu ra, đóng thuế, chi phí
quảng bá sản phẩm… trong khi băng đĩa gốc bán ra từ 35.000 đồng trở lên thì băng đĩa
lậu chỉ khoản từ 5.000 - 7.000 đồng, điều này đã giết chết ngành công nghệp ghi âm
trong nước.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh băng đĩa trái phép tồn tại từ hàng chục năm nay
mà chưa có phương pháp ngăn chặn triệt để. Băng đĩa lậu tràn lan khắp nơi là chuyện
cũ và cũng luôn là chuyện mới. Băng đĩa lậu là mối đe dọa cho nước ta và đã để lại
nhiều hậu quả xấu. Mỗi năm các công ty phát hành băng đĩa chính danh đã bị thiệt hại
hàng tỷ đồng từ nạn sao chép băng đĩa bất hợp pháp. Cùng đó sự tràn lan đĩa nội dung
xấu luôn là mối nguy hại, làm suy thoái đạo đức ở một số bộ phận thanh niên trẻ gây
nhiều nhức nhối với cộng đồng.
Từ những hành vi vi phạm trên đã khiến cho các nhà sản xuất chân chính gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí dẫn đến tình trạng bị phá sản, hay đóng cửa vì phải cạnh
tranh với băng đĩa lậu, do nạn ăn cắp bản quyền.72
Bên cạnh nạn in băng đĩa là vấn đề các nhà sản xuất băng đĩa âm thanh, băng đĩa
hình không xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm mà sử dụng trong băng đĩa sản xuất.
Theo thống kê 1/3 số đĩa nhạc được sản xuất trong năm 2004 là nhạc ngoài lời Việt
(chủ yếu là nhạc Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản) khi sản xuất các đĩa này nhà sản
xuất cũng không xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.73
Như vậy, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình từ vị trí là chủ thể bị xâm phạm
quyền trở thành chủ thể xâm phạm quyền của các chủ thể khác. Vì thế các cơ quan
chức năng không chỉ có biện pháp kiểm tra phát hiện đối với các cơ sở sản xuất băng
đĩa lậu mà ngay chính những cơ sở sản xuất chính thống cũng cần rà soát chặt chẽ
để tránh tình trạng xâm phạm quyền của các chủ thể khác.
3.1.2 Thực trạng xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình trên
Internet
72 Lương Bằng, Báo động tình trạng vi phạm bản quyền tác giả trên Internet, báo Hải quan, .bao
haiquan.vn/Pages/ban-quyen-tac-gia-van-bi-vi-pham-tran-lan.aspx, [truy cập ngày 02/03/2012].
73 Nhiều tác giả, Quyền sở hữu trí tuệ Focus on intellectual property rights, Nxb từ điển bách khoa Hà Nội,
2006, tr 66.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiĐề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 68 SVTH: Thạch Thị Liễu
Ngành công nghiệp ghi âm của Việt Nam đang đứng trước một nguy cơ phá sản
với vô vàn khó khăn và thách thức. Không chỉ khốn đốn với nạn băng đĩa lậu tồn tại từ
lâu, trong vài năm gần đây, sự phát triển chóng mặt của công nghệ số và Internet đã
mang đến những tiện ích mới cho người sử dụng nhưng cũng mở ra các lối đi khác cho
nạn xâm phạm bản quyền ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
Vấn đề vi phạm bản quyền càng trở nên phức tạp hơn trong môi trường Internet,
vì tại đây, người ta dễ dàng thực hiện các hành vi sao chép và phổ biến trái phép các
tác phẩm, các bản ghi, ghi hình đang được bảo hộ bản quyền. Nạn vi phạm bản quyền
trong môi trường kỹ thuật số và Internet đang là thách thức lớn trong việc tự bảo vệ
quyền của các chủ thể quyền, đồng thời cũng là thách thức đối với các cơ quan quản lý
và thực thi về bảo hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Chúng ta chưa có các
số liệu thống kê toàn diện để đánh giá mức độ vi phạm quyền nhà sản xuất bản ghi âm,
ghi hình và tác hại của nó đối với sự phát triển của ngành công nghiệp sáng tạo nói
riêng, sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước nói chung. Song, chúng ta
cũng dễ nhận thấy rằng, tình trạng vi phạm bản quyền này đã và đang gây thiệt hại cho
chủ thể quyền và tác động tiêu cực đến hoạt động sáng tạo, ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư, hợp tác kinh tế - văn hóa với các nước trên thế giới.
Hiện nay, những trang web cho nghe nhạc như: sonhai, hoaphuongnam,
timnhanh, hihihehe,, musictop1, nha3, nhaccuatui, nhaccaigi, vietgiaitri, ca nhac,
nhac8, vietnhim, hayso1, langnghe, nghenhacso1, nhac1000, bonghongxanh, 9nhac,
baamboo... có số lượng người truy cập rất lớn. Đa số vào để nghe miễn phí, down load
nhạc thoải mái và tự do chia sẻ tất cả tài nguyên âm nhạc trong và ngoài nước. Trên
những trang web này, số lượt tải và nghe những bài hát có khi lên đến hơn triệu lượt
cho các bài đang phổ biến. Và như thế, mức độ ảnh hưởng đến nền công nghiệp ghi
âm trong nước đang ở mức báo động.
Ví dụ: với chương trình được ghi hình và thực hiện tại Trung Quốc của ca sĩ
Đan Trường trị giá 900 triệu, mức phạt cao nhất nếu bị xâm phạm có thể là
4,5 tỷ. Như vậy, hàng ngàn các trang web cho download, cho nghe thoải mái
trên mạng chỉ còn cách tự đóng cửa vì không có khả năng ra toà và nộp
phạt.74
Bên cạnh đó, đang có rất nhiều trang web cá nhân thực hiện việc sử dụng, sao
chép và phát tán các sản phẩm trí tuệ khác trên mạng Internet mà không thực hiện việc
trả tiền bản quyền. Hơn nữa, hầu hết các website kinh doanh về âm nhạc, đưa các bản
74 Theo VietNamnet, Năm 2009 hàng ngàn trang web âm nhạc đứng trước nguy cơ xóa sổ, dan cong
nghe.vn/f90/hang-ngan-trang-web-am-nhac-vn-truoc-nguy-co-xoa-so-509.html, [truy cập ngày 10/03/2012].Đề Tài: Bảo hộ quyền của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình theo pháp luật Việt Nam
GVHD: Nguyễn Phan Khôi Trang 69 SVTH: Thạch Thị Liễu
ghi âm, ghi hình lên chưa thực hiện nghĩa vụ của mình với chủ thể quyền nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình. Họ đưa lên với nhiều động cơ, có thể để lấy tiền quảng cáo, hay
phục vụ việc download của người tiêu dùng nhằm kiếm tiền, sinh lợi, nhưng không
thanh toán tiền nhuận bút, thù lao cho người nắm giữ bản quyền. Các website cũng
xâm phạm quyền của nhau, ví dụ, sử dụng các bản ghi âm, ghi hình từ một website
khác về website của mình nhưng không có sự thỏa thuận, xin phép nhà sản xuất.
Thêm nữa, việc quản lý bản quyền trên web lại là một việc hết sức khó khăn.
Việc tranh chấp bản quyền trên hệ thống Internet đã không còn xa lạ với công chúng
Việt Nam gần đây.
3.2 Công nghệ kỹ thuật số và Internet
Sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ rõ ràng là một con dao hai lưỡi đối với
nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và đối với cả người nắm giữ bản quyền. Bên cạnh
nhiều ích lợi cũng tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho những ai sử dụng và khai thác quyền
của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Một mặt, nó giúp cho các nhà sản xuất phổ biến
những sản phẩm của mình tới đông đảo công chúng. Mặt khác, tiến bộ công nghệ này
cũng tạo cơ hội cho nhiều kẻ gian, nhiều kẻ cạnh tranh bất hợp pháp với nhà sản xuất
sao chép và tiêu thụ trái phép những bản ghi âm, ghi hình này.75
3.2.1 Vụ kiện Hiệp hội thu thanh Mỹ (RIAA) - Napster
Napster là Vụ án đầu tiên liên quan đến phổ biến tác phẩm âm nhạc trên mạng
sử dụng phần mềm P2P vào năm 1999. Công ty Napster cung cấp một phần mềm cho
phép người sử dụng mạng có thể tải các bản nhạc dưới dạng MP3 vào máy tính của
họ. Thông qua một máy chủ trung tâm, những người sử dụng mạng khác có thể truy
cập và tải các bản nhạc này trực tiếp từ máy tính của người khác mà không cần
qua hệ thống trung tâm.
Vài tháng sau khi hãng này mở rộng dịch vụ, Hiệp hội thu thanh Mỹ (RIAA),
trong đó có Warner Records do AOL Time Warner sở hữu, đã đệ đơn lên Toà Liên
bang kiện Napster. Trong đơn kiện, RIAA lên án Napster đã làm họ thiệt hại hàng tỷ
đôla. Ngày 12/02/2001, Toà án phúc thẩm ở Hoa Kỳ tại San Francisco đã đưa ra phán
quyết rằng Napster và những người sử dụng Internet là những người đồng vi phạm đối
với các tác phẩm âm nhạc và yêu cầu Napster phải chấm dứt hành vi trao đổi âm nhạc
ghi dưới dạng MP3. Toà cho rằng, Napster vi phạm bản quyền bởi đã phát lại và cho
phép khách hàng trao đổi âm nhạc của các hãng khác.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh Văn hóa, Xã hội 0
D Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam Luận văn Luật 1
H Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO Luận văn Kinh tế 0
D Vai trò của thông tin khoa học và công nghệ đối với hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trên đ Kinh tế quốc tế 0
B Bảo vệ quyền con người trong bốn công ước Geneva về việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh : Luận văn ThS. Luận văn Luật 0
P Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo luật nước ngoài Luận văn Luật 2
M Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ : Luận văn ThS. Luật: 60 38 60 Luận văn Luật 0
N Về việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và pháp l Luận văn Luật 0
G Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS. L Luận văn Luật 0
A Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với Kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS Luận văn Luật 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top