hongthao_vn2001

New Member

Download miễn phí Bài giảng Phân loại viêm





Viêm mủ bọc (abces) là viêm mủ tạo thành các túi nắm sâu trong các cơ quan đặc chắc (gan, cơ, phổi v.v.), còn gọi là túi mủ.
Túi mủ được bao bọc một màng xơ chắc, có nhiều huyết quản tân tạo, nguyên bào sợi, BCĐNTT, ĐTB, và limphô bào; các mao mạch liên tục cung cấp các BCĐNTT để biến thành tế bào mủ nên được gọi là màng sinh mủ (membrana pyogenica). Bọc mủ có thể lớn dần, lượng mủ ngày càng nhiều, làm cho áp lực mủ tăng lên, làm rách màng sinh mủ, mủ thoát ra để lại một vết loét (ulcus). Mủ có thể chảy vào các xoang cơ thể, chảy vào lòng mạch theo dòng máu gây huyết nhiễm mủ. Đường thoát mủ sẽ tổ chức hoá và mủ theo đó chảy liên tục ra ngoài tạo thành lỗ dò (fistula).
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

V. PHÂN LOẠI VIÊM I - PHÂN LOẠI THEO LÂM SÀNG 1. Căn cứ vào vị trí xảy ra viêm Như viêm gan, viêm thận, viêm da… Khi cần phân loại chi tiết hơn nữa như viêm kẽ thận, viêm kÏ cơ tim… Cách gọi tên cũng đơn giản: Sau tên cơ quan hay tổ chức thêm chữ viêm (chữ la tinh itis). Thí dụ: Viêm gan: hepatitis; viêm thận: Nephritis Cách phân loại này đơn giản, tiện trong lâm sàng nhưng không nêu được những đặc điểm và bản chất phức tạp của viêm. 2. Căn cứ vào thời gian tiến triển của viêm a/ Viêm quá cấp tính (peracuta inflammatio) Quá trình viêm xảy ra mau lẹ, có khi chỉ vài giờ con vật đã chết. Thường do những kích thích rất mạnh gây nên.Tổn thương ở thể này không kịp xuất hiện Hay gặp ở một số bệnh truyền nhiễm như Nhiệt thán, Đóng dấu lợn, Tụ huyết trùng… b/ Thể cấp tính (Acuta inflammtio) Quá trình viêm xảy ra nhanh, ồ ạt với những triệu chứng toàn thân rõ ràng như: sốt cao, rối loạn thần kinh rối loạn tim mạch, hô hấp, tiêu hóa…. Các biểu hiện cục bộ như sưng, nóng, đỏ, đau rõ. Về mặt mô học, hiện tượng xung huyết, rỉ viêm và các tế bào xâm nhập nhiều, nhất là bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế. Thể viêm này kéo dài thường từ 24 giờ đến ba tuần lễ. c/ Thể mãn tính (Chronic inflammtio). Kéo dài từ 3 tuần lễ trở lên, có khi hàng tháng hay hàng năm. Triệu chứng không rõ ràng, lúc rõ, lúc không. Đặc điểm của loại viêm này chủ yếu là quá trình tăng sinh mô bào Gặp trong những bệnh có sự cân bằng giữa sức đề kháng của cơ thể và yếu tố gây bệnh. Mycobacteria (Tuberculosis), Brucella, các loại nấm (Fungi), một số giun sán và ấu trùng của chúng có thể tạo nên ở mô bào một loại cấu trúc gọi là u hạt quá mẫn (hypersensitivity granuloma), hay u hạt truyền nhiễm (Infectious granuloma),. d/ Thể á cấp tính (Subacuta inflammtio) Thể này viêm kéo dài hơn thể cấp tính, thời gian trung bình từ vài ngày đến vài tuần lễ. Thể này, nếu sự cân bằng giữa nguyên nhân gây viêm và sức đề kháng của cơ thể thay đổi thì bệnh có thể chuyển thành thể cấp tính, hay thể mãn tính II. PHÂN LOẠI THEO m« HỌC Chủ yếu là dựa vào những biến đổi cơ bản tại ổ viêm để phân loại. Căn cứ vào những thay đổi về hình thái, cấu trúc của mô bào và thành phần chất rỉ viêm, người ta chia viêm ra ba loại cơ bản là: viêm biến chất, viêm rỉ, viêm tăng sinh. Cách phân loại này cũng chỉ tiện cho nghiên cứu và học tập. Thực tế phải hiểu rằng một loại viêm nào đó chỉ là một trong ba quá trình trên chiếm ưu thế, còn hai quá trình khác biểu hiện yếu hơn hay chậm hơn mà thôi. Thực ra không có một ranh giới rõ ràng dứt khoát giữa ba quá trình trên trong viêm, chúng có thể xảy ra đồng thời hay trước - sau hay xen kẽ nhau, thậm chí có thể chồng chéo lên nhau trong cùng một phản ứng viêm. 1. Viêm biến chất (inflammatio alterativa). Có đặc trưng là: các TB bị biến chất, thoái hóa là chủ yếu còn phản ứng huyết quản, rỉ viêm và tăng sinh thể hiện nhẹ. Các TB nhu mô bị TH hạt, TH mỡ hay hoại tử. VBC hay xảy ra ở các cơ quan thực thể như thận, tim, gan, não tủy… VBC cơ tim gặp ở bệnh LMLM thể ác tính, bệnh Derzsy ở ngỗng con… VBC thường là một quá trình viêm cấp tính, nhưng đôi khi cũng thấy diễn biến m¹n tính thể hiện ở sự tăng sinh mạnh ở mô kẽ của tổ chức bị viêm. VBC thường do nhiễm độc hay vi sinh vật gây bệnh gây nên. 2. Viêm rỉ (Inflammatio exudativa). Đây là quá trình viêm trong đó phản ứng huyết quản thể hiện rõ, hiện tượng rỉ viêm chiếm ưu thế. Do thành mạch quản bị tổn thương là tăng tính thấm khiến cho các thành phần trong máu như nước, các thành phần Protít và các loại bạch cầu thoát mạch đi vào ổ viêm. Thể viêm này hiện tượng biến chất, tăng sinh xảy ra ở mức độ nhẹ. Căn cứ vào thành phần chất rỉ viêm, người ta phân rỉ viêm ra mấy loại sau: viêm thanh dịch, viêm tơ huyết, viêm mủ, viêm xuất huyết và viêm cata. a/ Viêm thanh dịch Viêm thanh dịch là loại viêm rỉ dịch rỉ viêm có nhiều dịch thể trong, chứa nhiều Albumin (3 - 5 %). Viêm thanh dịch hay xảy ra ở thanh mạc, nơi có hệ thống mạch quản phong phú phân bố rộng rãi khắp các vách xoang như màng phổi (pleuritis serosa), bao tim (pericarditis serosa), màng bụng (peritonitis serosa). Viêm thanh dịch cũng xảy ra ở niêm mạc như: dạ dày (gastritis serosa), đường ruột (enteritis serosa), nội mạc tử cung (endometritis serosa). Viêm thanh dịch thường tiến triển cấp tính, có ít trường hợp ở thể á cấp tính như: viêm bao khớp, viêm bao dịch hoàn. Nguyên nhân gây viêm thanh dịch có rất nhiều. Viêm thanh dịch ở phổi hầu hết là do virut, vi khuẩn. Quá trình viêm ở đây đầu tiên là viêm thanh dịch, sau phát triển thành viêm tơ huyết, viêm mủ. Nguyên nhân virut có thể gặp trong bệnh cúm ngựa, lợn… Viêm thanh dịch là loại nhẹ nhất trong các loại viêm rỉ. Khi dịch rỉ viêm ít, quá trình viêm dừng lại thì thanh dịch bị hấp thu nhanh chóng và không lưu lại tổn thương gì trong mô bào. Nếu dịch rỉ nhiều sẽ gây chèn ép các cơ quan lân cận làm rối loạn chức năng. b.Viêm tơ huyết (Inflammatio fibrinosa) Viêm tơ huyết là loại viêm trong đó thành phần dịch rỉ viêm chứa nhiều tơ huyết (fibrin). Viêm tơ huyết thể bạch hầu (Inflammatio fibrinous Diptheria) Loại viêm này chỉ xảy ra ở niêm mạc, hiếm thấy ở thanh mạc. Đặc điểm của thể viêm này là tơ huyết quện với tổ chức hoại tử phía dưới tạo thành một vẩy chắc khó long ra. Khi bóc ra để lộ ở dưới một vết loét xuất hưyết. Ví dụ viêm tơ huyết ở miệng, hầu trong bệnh Newcastle, ở đường ruột trong bệnh do trực trùng hoại tử ở bò, trong bệnh dịch tả lợn Quan sát trên kính hiển vi, tơ huyết bắt màu hồng (nhuộm H.E) Viêm tơ huyết thể màng giả (Inflammatio fibrinous crouposa) Loại viêm này tơ huyết tạo thành lớp màng mỏng phủ lên bề mặt tổ chức bị viêm, hay kết vón lại thành cục, sợi, thỏi, có khi chèn đầy các xoang trong cơ thể. Mô bào phía dưới chỉ tổn thương nhẹ, vì vậy khi bóc lớp tơ huyết đi không để lại vết loét. Viêm tơ huyết thể màng giả có thể xảy ra ở niêm mạc và thanh mạc. Một tiến triển hay gặp của viêm tơ huyết là tổ chức hoá (organisatio)- nhục hoá (carnification) tức là tăng sinh tế bào xơ thay thế cho tơ huyết gây trạng thái dính bám (adhesiva) làm trở ngại cơ năng các cơ quan. c.Viêm mủ ( inflammatio purulenta) Viêm mủ là quá trình viêm trong đó mủ là thành phần chính của dịch rỉ viêm. Sự hình thành mủ là một quá trình đòi hỏi phải có bạch cầu đa nhân trung tính, các enzim phân huỷ protit và tổ chức bị hoại tử. Như vậy riêng sự có mặt của bạch cầu đa nhân trung tính chưa thể coi là mủ, nhưng nếu chúng xuất hiện với số lượng lớn trong một thời gian dài thì mủ cũng được hình thành. Như vậy trong thành phần mủ gồm bạch cầu đa nhân trung tính sống hay chết, kết hợp với thành phần tế bào tổ chức hoại tử; một số thành phần khác của máu như huyết thanh, tơ huyết và một số tế bào khác… Trạng thái có mủ rất khác nhau, phụ thuộc vào nguyên nhân và điều kiện hình thành. Mủ lỏng do Streptococcus, sền sệt do Glucococcus. Màu sắc cũng rất phức tạp thường có màu trắng sữa, trắng xám, màu vàng do Staphylococcus, hay vàng xanh do Pneumococcus, nếu lẫn máu sẽ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top