Link tải miễn phí Luận văn: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa : Luận văn ThS. Khoa học chính trị: 60 31 02 04

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài............................................................... 1
2. Tóm lược tình hình nghiên cứu vấn đề….. ……………... 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn………... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………. 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………… 9
6. Đóng góp mới của luận văn…………………………….. 10
7. Kết cấu của luận văn…………………………………….. 10
Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI
– MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN 11
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người…………… 11
1.1.1. Những quan điểm về con người…………………….. 11
1.1.2. Những quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò con
người……………………………………………………….
23
1.2. Vai trò, ý nghĩa của chiến lược xây dựng con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh…………………………………
2727
27
Chƣơng 2: XÂY DỰNG CON NGƢỜI VIỆT NAM THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC
31
2.1. Những yêu cầu về cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và thực trạng về con người Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………………
31
2.1.1. Những yêu cầu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước…………………………………………………. 31
2.1.2. Thực trạng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp 35
hoá, hiện đại hoá…………………………………………..
2.2. Phương pháp xây dựng con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh… 44
2.2.1. Giáo dục toàn diện, rèn đức cùng với luyện tài……... 44
2.2.2. Lấy con người làm trung tâm, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của con người……………………………………..
50
2.2.3. Kết hợp “học” đi đôi với “hành”……………………. 52
2.3. Một số giải pháp để xây dựng con người Việt Nam thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá……………………
53
2.3.1. Đổi mới, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo …… 53
2.3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân
lực phù hợp với điều kiện mới………………………………. 63
2.3.3. Phát huy vai trò tự tu dưỡng, tự giáo dục của con
người trong điều kiện mới…………………………………… 69
2.3.4. Kết hợp giữa phát triển văn hoá với gia đình, nhà
trường và xã hội………………………………………….......
72
2.3.5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, Tổ chức Đoàn thanh niên trong quá trình xây
dựng con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá……………………………………………..
74
KẾT LUẬN……………………………………………….. 81
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề con người là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Những luận điểm về xây dựng con người mới của Hồ Chí Minh đã
định hướng cho việc đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam qua nhiều giai
đoạn cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, hiệu quả
của các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng phụ thuộc lớn vào mức độ
thành công của việc giáo dục, đào tạo và xây dựng con người. Thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước hiện nay đang
đặt ra những yêu cầu mới về con người.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI (1-2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu quan điểm: “Con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”
[18, tr. 76]. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, chúng ta có thể
có những kiến giải sáng rõ hơn, thiết thực hơn cho chủ đề này. Đó là lý do
chúng tui chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng con
người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” là đề tài
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học của mình.
2. Tóm lƣợc tình hình nghiên cứu vấn đề
Sau Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991), tư tưởng Hồ Chí Minh là
đề tài nghiên cứu của nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước. Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng được giới lý
luận nước ta quan tâm, nhiều công trình nghiên cứu chủ đề này có giá trị lý
luận và thực tiễn.
2.1. Một số sách có nội dung nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
con ngƣời đã đƣợc xuất bản
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2
Hồ Chí Minh (1995), “Về xây dựng con người mới”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này do tập thể cán bộ phòng tư liệu
Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh sưu tầm, tuyển chọn, Nguyễn Huy Hoan chủ
biên,. Cuốn sách tập hợp những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng con người Việt Nam mới. Đây là những tư liệu quý, thể hiện cô
đọng những tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người, về cách
đánh giá, bồi dưỡng, chăm lo và xây dựng, phát huy nhân tố con người trong
sự nghiệp cách mạng.
Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (Nghiên cứu xã hội học), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là sản phẩm của Chương trình khoa học công
nghệ cấp Nhà nước: “Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế xã hội” mã số KX.07 do GS. TS Phạm Minh Hạc là chủ nhiệm.
Đây là công trình được thực hiện một cách công phu, đạt chất lượng cao trong
lĩnh vực nghiên cứu về con người và phát huy nguồn lực con người. Các tác
giả đã phân tích khái quát truyền thống văn hoá dân tộc, làm rõ vấn đề phát
huy và sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển
kinh tế - xã hội. Các tác giả đặt vấn đề chuẩn bị con người Việt Nam phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phát triển đất nước.
“Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1995 của tập thể tác giả Nguyễn Huy Hoan, Nguyễn Xuân
Thông, Nguyễn Thị Minh Hương, Phạm Thị Lai, Nguyễn Thanh Nga. Các tác
giả đã sưu tầm tuyển chọn những đoạn trích về “tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng con người mới” trong Hồ Chí Minh Toàn tập do Nhà xuất bản Sự thật
xuất bản lần thứ nhất từ 1980 đến 1989 và một số tác phẩm khác của Người,
một số tư liệu lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Nội dung được sắp xếp theo
sáu vấn đề sau: vai trò con người và ý nghĩa việc xây dựng con người mới;3
đánh giá con người; bồi dưỡng con người về trí tuệ; bồi dưỡng đạo đức; xây
dựng mục đích và lối sống; chăm lo lợi ích và đời sống vật chất của con
người.
Các tác giả Lê Sỹ Thắng, Hoàng Tùng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Bùi
Đình Thanh trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về chính
sách xã hội” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996) đã trình bày,
phân tích những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về
chính sách xã hội, khẳng định tư tưỏng Hồ Chí Minh về con người luôn là
cơ sở cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, là kim chỉ nam
cho hành động của các đảng viên, cán bộ quản lý, các nhà lãnh đạo trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các tác giả đã đặt tư
tưởng Hồ Chí Minh trong sự phát triển nội tại của lịch sử tư tưởng Việt
Nam thời cận - hiện đại, trong mối quan hệ biện chứng của sự vận động tư
tưởng với cơ sở kinh tế - xã hội gắn liền với thực tiễn cách mạng và khoa
học của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
PGS. TS Thành Duy (2001), trong cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh với
sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện” (Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội), đã đề cập đến những quan điểm cơ bản về
mối quan hệ giữa văn hoá với việc xây dựng con người phát triển toàn
diện; nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người phát triển toàn diện; đặc điểm, bản chất, quan niệm và giải pháp xây
dựng con người phát triển toàn diện.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người” (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002) của TS. Lê Quang Hoan đã cố gắng làm sâu sắc thêm
khái niệm con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, trình bày rõ thêm nguồn gốc, quá trình hình thành
và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, tập trung phân tích
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi4
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, chỉ ra đặc
điểm nội dung chủ yếu, bản sắc giá trị, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả
cũng đánh giá thực trạng phát huy nhân tố con người trong thời gian qua
theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kiến nghị phương hướng và
một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh.
GS Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), (2005) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển văn hoá và con người” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội). Cuốn
sách là kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp nhà nước KHXH-04-01 do GS
Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm. Nội dung gồm ba phần: tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá và con người trong lịch sử và sự kế thừa tư tưởng đó của Hồ
Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và con người; vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá và con người vào việc phát triển văn hoá và xây
dựng con người Việt Nam hiện.
Trong cuốn sách: “Con người và phát triển con người” - giáo trình
dùng cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết
học (Nhà xuất bản, Giáo dục, 2007), PGS.TS Hồ Sỹ Quý đã đưa ra những
nhận thức về con người và vai trò con người, những vấn đề lý luận chung về
con người và phát triển con người; những vấn đề phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu con người... Tác giả đưa ra những gợi ý về xây dựng
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2. Những bài nghiên cứu nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
con ngƣời trên các tạp chí chuyên ngành
Số lượng bài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trên các
tạp chí rất lớn, tập trung trên các tạp chí Triết học, Lý luận chính trị, Lịch sử
Đảng. Có thể nêu một số tác giả có bài viết gần với chủ đề của Luận văn như:5
Nguyễn Trọng Bảo: “Con người, nguồn nhân lực, sự nghiệp giáo dục
đào tạo với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, tạp chí Đại học
và giáo dục chuyên nghiệp số 3-1996. Tác giả chỉ rõ vai trò của con người
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với sự nghiệp giáo
dục, đào tạo.
Nguyễn Đình Phong: “Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc
cho mọi người, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh”, tạp chí Lịch sử Đảng số
3-1994. Bài viết hướng tới nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Chí
Minh là giải phóng con người thoát khỏi bóc lột, đem lại quyền tự do, hạnh
phúc cho con người.
PGS Trần Thành: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến
lược trồng người” (Tạp chí Công tác khoa giáo 12-1997) đã chỉ rõ vị trí,
vai trò con người, nhấn mạnh vai trò của giáo dục đào tạo trong viêc xây
dựng con người mới.
GS Đặng Xuân Kỳ với bài “Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và
bản chất con người, tạp chí Triết học số 10 (137) đã chỉ ra ra một số quan niệm
của Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người trong các mối quan hệ
đặc biệt là đối với con người Việt Nam gắn với điều kiện xã hội thuộc địa nửa
phong kiến.
Tác giả Lã Quý Đô, “Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” - tạp chí Lịch sử Đảng số 9-2007. Lã Quý Đô
nêu rõ nội dung quan trọng con người trong sự nghiệp cách mạng và việc
chăm lo bồi dưỡng, đào tạo thế hệ này.
PGS Trần Thành, Lê Quang Hoan “Hồ Chí Minh với vấn đề nhân tố
con người trong sự nghiệp CNH, HĐH” (tạp chí Nghiên cứu lý luận số
1/2000). Các tác giả đã khái quát một số nội dung có ý nghĩa phương pháp
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6
luận của Hồ Chí Minh về vấn đề con người như giáo dục chủ nghĩa yêu nước,
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng.
PGS, TS Nguyễn Văn Tài có bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và phát huy nhân tố con người”, tạp chí Triết học số 2, tháng 2/2004. Nội
dung bài viết đề cập đến quan niệm về con người của Hồ Chí Minh, mối quan
hệ thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội, con người giai
cấp, dân tộc và nhân loại…
Lê Thị Hương “Về một số phẩm chất cơ bản cần có và định hướng phát
huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, tạp chí Lý luận chính trị
và truyền thông (Báo chí và Tuyên truyền) số 5/2007. Bài viết chỉ ra một số
phẩm chất của con người trong quan điểm Hồ Chí Minh: Cần , kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, tinh thần lao động quên mình, có lối sống lành mạnh,
văn minh… và chỉ ra một số định hướng cơ bản về phát huy tiềm năng và
sáng tạo của con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
“Về phương pháp luận nghiên cứu văn hoá và con người” - Niên giám
thông tin KHXH. Số 3-2008
Hà Đức Long: “Quan điểm của Đảng về con người trong Văn kiện Đại
hội XI”, tạp chí Triết học số 2(249) 2012. Tác giả làm sáng tỏ quan điểm của
Đảng về vị trí, vai trò con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển;
nhấn mạnh tầm quan trọng của con người trong sự nghiệp cách mạng.
Đường Vinh Sường: “Phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, tạp chí
Cộng sản số (850) – 2013. Tác giả đã đưa ra quan điểm phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam và đưa ra một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay.
2.3. Các luận án, luận văn
Nguyễn Hữu Công (2001) “Tư tưởng Hồ Chí minh về phát triển con
người toàn diện”, luận án tiến sỹ triết học. Tác giả tập trung nêu lên tư tưởng7
về giáo dục, đào tạo phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh. Chỉ ra
vai trò của nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá trong quá trình hình thành và
phát triển con người toàn diện, về con đường hình thành và phát triển con
người toàn diện theo quan niệm của Hồ Chí Minh. Tác giả đưa ra hướng vận
dụng và phát huy tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh
vào sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn thạc sĩ triết học của tác giả Phùng Thu Hiền (Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh) Tư tưởng Hồ Chí minh về nhân tố con người với
việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay
(2002) đã làm rõ quan niệm Hồ Chí Minh về nhân tố con người, làm rõ những
thành công, hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta và đề ra
những phương hướng, giải pháp để phát huy nhân tố con người trong thời kỳ
đổi mới.
Luận văn Thạc sỹ Hồ Chí Minh học của Nguyễn Văn Tuyên (2006) “Hồ
Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam” đã khái quát một số
quan điểm của Hồ Chí Minh về con người Việt Nam và sự giải phóng con
người Việt Nam, về việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và thực
hiện chính sách xã hội vì con người; chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tư tưởng giải phóng con người trong công cuộc đổi mới đất nước
và chỉ ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng con người theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận văn Thạc sỹ Hồ Chí Minh học của Nguyễn Thị Nguyệt Minh
(2012) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với việc xây dựng
thế hệ thanh niên Việt Nam hiện nay” đã chỉ rõ một số nội dung cơ bản trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, xây dựng thế hệ thanh
niên việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi8
Luận văn Thạc sỹ Hồ Chí Minh học của Võ Thị Thu Ngọc (2012) “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người và sự vận dụng của Đảng ta
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đã nêu rõ cơ sở
lý luận cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy
nhân tố con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sự vận dụng của
Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong xây dựng CNHX ở nước ta hiện
nay.
Các tác giả đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về
vai trò con người dưới nhiều góc độ khác nhau. Luận văn “Vận dụng tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh để xây dựng con ngƣời Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của chúng tui kế thừa những kết
quả nghiên cứu đó. Trên cơ sở tìm hiểu, khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người, Luận văn tổng hợp và phân tích những nội dung cơ bản trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, nêu những giải pháp để xây dựng con
người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người làm cơ sở lý luận để đưa ra một số giải pháp cơ bản để xây
dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
- Chỉ ra thực trạng và những yêu cầu về con người Việt Nam thời kỳ
CNH, HĐH .
- Phương pháp xây dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.9
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản để xây dựng con người Việt Nam thời
kỳ CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những luận điểm của Hồ Chí Minh về con người
và việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người để xây dựng con người
Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
4.2. Phạm vi nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và vai trò của con người, những phương pháp xây dựng con người
mới.
- Nghiên cứu những vấn đề về thực trạng con người Việt Nam; những
yêu cầu và giải pháp để xây dựng con người Việt Nam từ khi bắt đầu thời kỳ
đổi mới (1986) đến nay trên những văn kiện của Đảng, của Nhà nước đặc biệt
là trong thời kỳ CNH, HĐH (sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, 1996)
Nguồn tư liệu:
- Các tác phẩm của Hồ Chí Minh, chủ yếu trong Hồ Chí Minh - Toàn
tập (bộ mới, 15 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011)
- Các Văn kiện Đại hội của Đảng toàn quốc và các Nghị quyết của
Đảng về vấn đề con người.
- Các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí liên quan đến con người
và các luận văn về con người.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi10
Cơ sở lý luận của Luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Hệ thống các quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước về xây dựng con người mới.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học trên cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó kết hợp hai
phương pháp lịch sử và logic. Những phương pháp khác: phân tích, tổng hợp,
điều tra, thống kê, đối chiếu, so sánh... được kết hợp sử dụng trong quá trình
thực hiện Luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn những quan điểm của Hồ Chí Minh về con
người, về vai trò con người trong sự nghiệp cách mạng.
- Nêu một số giải pháp cơ bản cơ bản để xây dựng con người Việt
Nam thời kỳ CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham
khảo, bổ sung giúp cho việc nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người – Một số nội dung cơ
bản.
Chương 2: Xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.11
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI
- MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con ngƣời
1.1.1. Những quan điểm về con người
- Quan điểm trước Chủ nghĩa Mác – Lê-nin về con người
Triết học cổ đại khi quan niệm về con người, thường tập trung tìm hiểu
về nguồn gốc con người, cấu tạo con người... theo hai xu hướng: đi tìm cái bản
nguyên đầu tiên cấu tạo nên con người và thế giới; hay là định nghĩa con
người trong mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác. Do trình độ sản xuất thấp
kém, con người bất lực trước các lực lượng tự nhiên nên quan niệm về con
người mang nặng tính chất thần bí. Nếu chủ nghĩa duy tâm nhấn mạnh mặt tinh
thần, tư tưởng của con người thì chủ nghĩa duy vật do ảnh hưởng của chủ nghĩa
duy vật chất phác, ngây thơ và phép biện chứng tự phát, quan niệm về con
người hướng vào tìm cái bản nguyên đầu tiên, vì vậy thường tuyệt đối hoá một
mặt, một yếu tố vật chất nào đó.
Thời phong kiến ở phương Tây khi triết học bị thần học chi phối, con
người được hiểu như là sự sáng tạo của thượng đế, của đức chúa trời, con
người mắc tội tổ tông truyền, phải chuộc tội, sống theo định mệnh và tin
tưởng vô điều kiện vào chúa.
Đến thời phục hưng và khai sáng (từ thế kỷ XV ở châu Âu), bắt đầu
một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm con
người về thời kỳ này thường gắn với con người cá nhân (cái tui như một chủ
thể), khẳng định vai trò con người trong xã hội, hướng con người tới sự giải
phóng khỏi thần học, khỏi sự áp bức và nô dịch. Do ảnh hưởng bởi phương
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi12
pháp siêu hình máy móc nên nhận thức về con người thời kỳ này còn nhiêu
hạn chế.
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con người
Triết học Mác-xít đã nêu lên một hệ thống các quan điểm phương pháp
luận làm sáng tỏ khái niệm về con người. Từ năm 1844, C. Mác và Ph Ăngghen đã dùng các khái niệm “con người là một sinh vật xã hội”, “là một sinh
vật có tính loài”, “con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội” thể hiện
tư tưỏng con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố
xã hội. Các tác phẩm sau này của hai ông tiếp tục khẳng định và những quan
điểm duy vật của mình: Tự nhiên là cái có trước, con người là sản phẩm của
quá trình tiến hoá tự nhiên. Mác viết: “Cũng như sự tồn tại của con người là
kết quả của một quá trình trước đó mà cuộc sống hữu cơ đã đi qua. Chỉ đến
một giai đoạn nào đó của quá trình này, con người mới trở thành con người”
[42, tr. 690]. Vì thế, về bản chất hoạt động của con người là hoạt động tự do,
có khả năng tri thức. Bằng việc tạo ra thế giới vật chất phục vụ những nhu cầu
của mình đồng thời có khả năng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, con người là
một sinh vật có tính loài có ý thức. Chỉ có ở con người mới có tính nhân văn,
tính đồng loại. Chỉ ở con người mới có tình cảm, biết yêu thương, cảm thông
với đồng loại.
Con người không chỉ sản xuất vì nhu cầu của chính mình mà bản thân
sự lao động sản xuất cũng là một nhu cầu theo ý nghĩa chân chính của nó.
Hơn thế, con người có nhu cầu sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Nếu tước đi
những sản phẩm do con người sáng tạo ra thì cũng có nghĩa là xem người
sáng tạo ra vật phẩm đó không còn là đồng loại của mình nữa. Mác gọi đó là
sự tha hoá hoạt động lao động tự do của con người. Cũng từ đó, có sự phân
hoá giữa những con người, tạo ra quan hệ giữa người này với người khác
thông qua lao động và sản phẩm lao động của mình. Như vậy, chính con13
người tạo ra các hoạt động xã hội và sản phẩm xã hội. Vì thế, bản chất con
người chỉ có thể được hình thành, được nhận thức thông qua các quan hệ xã
hội của nó. Bản chất con người không phải là thần bí, trừu tượng, bất biến,
tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội. Theo Mác, bản chất con người là “ tổng
hoà các mối quan hệ xã hội”. Nghĩa là tất cả các mối quan hệ xã hội vật chất -
tinh thần, đều góp phần vào viêc hình thành bản chất con người, trong đó
quan hệ sản xuất đóng vai trò quyết định nhất.
Quan điểm Mácxít coi lịch sử như là một quá trình tự sinh của con
người, do con người thực hiện trong qúa trình thực tiễn cải tạo thế giới. Thực
tiễn không chỉ là một quá trình con người biến đổi thế giới khách quan, mà
còn là quá trình biến đổi chính bản thân mình. Đưa quan điểm thực tiễn vào
nghiên cứu con người, triết học Mac-xit đã chuyển vấn đề con người từ cách
giải đáp tư biện sang cơ sở vững chắc của đời sống thực tiễn, từ “thế giới bên
kia” hay trong bản thân con người, sang thực tiễn sản xuất và trong đời sống
xã hội.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hoá dân tộc và nhân loại, tiếp thu vận
dụng, phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã
nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành Chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh. Tuy không có một tác phẩm nào bàn riêng về con người,
nhưng tư tưởng về con người phong phú và xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí
Minh. Con người luôn luôn được nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng, cao
cả của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi, toả sáng trong từng suy
nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh sử dụng từ ngữ khác nhau để nói về con người như:
người, người ta, quần chúng, dân, nhân dân, đồng bào…Con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người trừu tượng mà là con người
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi14
cụ thể, hiện thực, khách quan. Đó là con người có cuộc sống riêng, có
những mối quan hệ riêng gắn với gia đình, với người thân, với quê hương
với tập thể đồng bào trong công đồng dân tộc và với nhân loại. Tổng kết
những quan niệm, quan điểm về con người trong lịch sử, Hồ Chí Minh cho
rằng: “Chữ người, gốc hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” [47, tr. 644]. Quan
niệm về con người của Hồ Chí Minh vừa thể hiện tính lịch sử, vừa hướng
vào những giá trị chung của con người, tự do, hạnh phúc, dân chủ để vươn
tới cái chân, thiện, mỹ, đạt tới lý tưởng nhân bản, nhân đạo của con người.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh thường dùng các
khái niệm: “người bản xứ”, “người nô lệ, “người cùng khổ”, “người vô sản ở
thuộc địa”… để chỉ thân phận con người mất nước ở Việt Nam và tất cả
những con người của các dân tộc bị chế độ thực dân đàn áp, bóc lột trên thế
giới.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh sử dụng các khái niệm
“đồng bào”, “nhân dân”...để chỉ con người Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ.
Con người được đặt trong mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, thống nhất của cộng
đồng dân tộc cùng nhau kháng chiến chống lại cuộc đấu tranh xâm lược lần
thứ hai của thực dân Pháp.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh dùng khái
niệm “lao động chân tay”, “lao động trí óc”, “nông dân tập thể”, “người chủ
tập thể”… để chỉ con người Việt Nam mới, con người xã hội chủ nghĩa.
Nói về con người Hồ Chí Minh thường dùng các thuật ngữ: “quần
chúng”, “dân’, “đồng bào” và ngược lại khi nói về “quần chúng”, “dân’,
“đồng bào”… cũng tức là nói về con người.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn là một chỉnh thể
thống nhất về thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Con người là một hệ15
thống - cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố: sức khoẻ, đời sống tinh thần, tâm linh
và vai trò chủ đạo của tri thức được thể hiện trong hoạt động. Các yếu tố này
quan hệ chặt chẽ với nhau, làm điều kiện cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tuy
rằng vai trò của mỗi yếu tố không giống nhau..
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập
(người đời không phải là thánh thần, ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ai cũng có tính
tốt tính xấu, có thiện có ác…). Các mặt đối lập đó không đơn thuần có nguồn
gốc từ xã hội, nó còn có căn nguyên từ yếu tố sinh vật của con người. Hồ Chí
Minh vừa thấy được cái căn nguyên sinh vật, vừa thấy được cái căn nguyên xã
hội ảnh hưởng tới hành vi và đời sống con người.
Về cấu trúc con người, Hồ Chí Minh coi thể lực, sức khoẻ là mặt rất
quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng: “Giữ gìn dân chủ,
xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm
thành công” [46, tr. 212]. Con người muốn có cuộc sống vui tươi, luôn phấn
đấu hứng thú trong lao động thì cần có sức khoẻ và thể lực tốt. Một thể
lực sung mãn, một thể chất hoàn thiện là điều kiện cần để nảy nở các năng lực
về trí tuệ và hình thành một đời sống tinh thần tích cực phong phú cho mỗi cá
nhân. “Khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khoẻ” [46, tr.
212]; “Và sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng
hăng hái” [49, tr. 8]. Từ đó Người yêu cầu việc cải tạo xã hội đồng thời và
trước hết là cải tạo bản thân mỗi con người nhằm làm cho cái xấú mất đi và
cái tốt ngày càng nhiều hơn trong mỗi con người. Đây là cái nhìn khoa học,
biện chứng của Hồ Chí Minh về con người và về công tác chăm lo giáo dục
con người.
Hồ Chí Minh luôn nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của nhân tố
tinh thần, tôn trọng và làm cho đời sống tinh thần con người ngày càng
phong phú. Người nói: “Con người dù xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi16
tình” [49, tr. 60]. Chữ “tình” đó không phải chi là những tình cảm cụ thể:
anh - em, vợ - chồng, bạn bè, cha - con, dòng họ mà bao quát hơn, đó là tình
người. Tình người theo nghĩa rộng nhất là đời sống tinh thần của con người,
biểu hiện tập trung ở mặt văn hoá, đạo đức. Nhân tính dẫn con người tới văn
hoá. Mọi người đều yêu sự lành, ghét sự dữ, yêu cái thiện, cái tốt, ghét các
ác, cái xấu.
Sức mạnh của ý thức cuối cùng phải được biểu hiện qua hoạt động
thực tiễn của con người và cách thức tổ chức, quản lý, khai thác, sử dụng nó.
Lý luận, tư tưởng có ý nghĩa đến mức nào phụ thuộc vào mức độ thâm nhập
vào đời sống thực tiễn của quần chúng, trở thành phong tục tập quán, tâm
trạng, tình cảm. Vì vậy mà “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và
làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng.
Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức” [47, tr. 248].
Với quan điểm duy vật Mác-xit, Hồ Chí Minh cũng khẳng định bản
chất con người mang tính lịch sử, xã hội; con người vừa là sản phẩm, vừa là
chủ thể của lịch sử; con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát
triển xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: Con người ta muốn sống thì phải có ăn,
mặc, ở, đi lại, muốn như vậy thì phải lao động. Tất cả của cải vật chất trong
xã hội đều do những người lao động làm ra. Muốn lao động sản xuất thì
con người phải liên kết với nhau trong tập thể, cộng đồng tạo ra cách sản
xuất và sức sản xuất. Chính sự phát triển và biến đổi của cách sản xuất và
sức sản xuất mà tư tưởng của con người, chế độ xã hội cũng phát triển và
biến đổi. Người viết: “Do sự sản xuất vật chất mà người ta hiểu biết dần
dần các hiện tượng, các tính chất, các quy luật và mối quan hệ giữa người
với giới tự nhiên. Lại do hoạt động sản xuất mà dần dần hiểu rõ mối quan
hệ giữa người này với người khác [48, tr. 247]. Người còn viết: “Xã hội có17
cơm ăn, áo mặc, nhà ở là nhờ lao động. Tri thức mở mang cũng nhờ lao
động (lao động tri óc). Vì vậy, lao động là sức chính của sự tiến bộ loài
người” [47, tr. 240].
Như vậy, Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm cả nghĩa
một cá nhân cụ thể hay một cộng đồng, giai cấp trong xã hội. Đó là Con
người gắn liền với hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội;
Con người thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, giữa cá nhân và
cộng đồng, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Con người vừa là sản phẩm
vừa là chủ thể tích cực của hoàn cảnh. Con người vừa là động lực vừa là mục
tiêu của sự phát triển lịch sử, chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn
hoá, vật chất, tinh thần trong xã hội. Cụ thể hơn, đó là con người Việt Nam
cùng khổ, bị áp bức, bóc lột đang vùng dậy để tự giải phóng mình, từng bước
làm chủ bản thân và làm chủ xã hội.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh những phẩm chất mà Người đưa ra đều
xuất phát từ thực tiễn đời sống của con người và xã hội Việt Nam, từ đó khái
quát thành tư tưởng, lý luận và trở lại cải tạo con người.
Trung với nước, hiếu với dân: Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao
trùm nhất. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không
những kế thừa những giá trị chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà
còn vượt qua những hạn chế đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp
giữ nước và dựng nước, Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân
của đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Đảng và chính phủ là đầy tớ của nhân
dân” chứ không phải là “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan
niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước. Hồ Chí Minh nói
rằng: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi18
của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói của Người vừa là lời
kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt
Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về
sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, “điều chủ chốt nhất” của đạo đức cách mạng
là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, là tuyệt đối trung
thành với Đảng, với nhân dân, “là trung với nước, là hiếu với dân”, hơn nữa là
phải “tận trung tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đày
tớ thật trung thành của nhân dân.
Yêu thương con người: Đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao
đẹp nhất. Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết giành cho những
người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó
đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là đem lại độc lập tự
do cho nước nhà, đem lại cơm ăn áo mặc cho nhân dân.
Tình yêu thương con người còn biểu hiện trong mối quan hệ bạn bè,
đồng chí với mọi người xung quanh. Nó đòi hỏi phải luôn chặt chẽ nghiêm
khắc với mình, rộng rãi độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi phải biết tôn
trọng con người, nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp con người. Tình
yêu thương con người còn được thể hiện đối với những người có sai lầm
khuyết điểm nhưng đã nhận ra khuyết điểm, sai lầm và cố gắng sữa chữa ngay
cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với kẻ thù đã bị
thương, bị bắt hay đã chịu quy hàng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây là phẩm chất đạo đức gắn
liền với hoạt động hằng ngày của mọi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đề cập đến
phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất.19
Cần tức là cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỉ
lại.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân của nước, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không xa xỉ, không hoang
phí, không phô trương hình thức.
Liêm tức là luôn luôn tôn trọng của công và của dân, “không xâm phạm
đến một đồng xu và hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch,
không tham lam, không tham địa vị, không tham tiền tài, của cải, địa vị.
Không tham sung sướng. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm và ham
tiến bộ.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình - không tự cao,
tự đại, luôn chịu khó học tập, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, hạn
chế điều dở của bản thân. Đối với người - không nịnh hót người trên, không
khinh thường người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết
thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc - để công việc công lên trên, lên
trước việc tư, việc nhà. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù
nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố là một việc lợi cho nước, cho dân.
Chí công vô tư: Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với
người, với việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau”; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư, một lòng vì nước vì dân, vì
Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều
đức tính tốt khác. Bồi dưỡng phẩm chất này sẽ làm cho con người vững vàng
trước mọi hử thách.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi20
Tinh thần quốc tế trong sáng: Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản,
mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề: “Bốn phương vô sản đều là anh
em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những
người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và sự tiến bộ xã hội. Tinh thần
quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản, hay chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền
với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và
chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm
chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua
khuôn khổ quốc gia dân tộc.
- Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp xây dựng con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp xây dựng con người là một
nội dung quan trọng trong việc đào tạo con người đáp ứng yêu cầu mới.
Phương pháp lý luận gắn với thực tiễn: Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng
việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức
giáo dục nào.
Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của mọi ngươì, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Nhưng
lý luận không phải là một cái gì đứng im, chết cứng mà nó luôn luôn cần đến
thực tiễn để được thực tiễn bổ sung, hoàn thiện bằng những kết luận mới
trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Mặt khác, lý luận là kết quả của tư duy
trừu tượng, được khái quát hoá thành những nguyên lý phổ biến, những quy
luật; do đó Người nói: Lý luận phải cụ thể hoá cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt
chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải21
bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng đinh: “Lý luận cũng như
cái tên. Thực hành cũng như cái đích đề bắn. Có tên mà không bắn, hay bắn
lung tung, cũng như không có tên”[50, tr. 235]. Như vậy, cũng có nghĩa là lý
luận suông, lý luận sách vở thuần tuý. “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc
thực tế… Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết
đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách” [50, tr. 234].
Phương pháp giáo dục toàn diện: Sinh thời Hồ Chí Minh đặc biệt chú
trọng đến giáo dục toàn diện, với sự cân bằng cả về giáo dục đức lẫn tài và
mối quan hệ giữa hai mặt đó trong sự hoàn thiện nhân cách của con người
mới – con người XHCN. Người từng dạy: “Trong việc giáo dục và học tập,
phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ XHCN, văn hoá, kỹ
thuật, lao động và sản xuất”. Đồng thời Người còn chỉ rõ: “Việc giáo dục gồm
có: đức, trí, thể, mỹ”. Bàn về vị trí, vai trò, mối quan hệ biện chứng giữa đức
và tài, tại Đại hội sinh viên lần thứ hai (7-5-1958), Hồ Chí Minh nói: Có tài
mà không có đức thì chẳng những không làm được ích lợi gì cho xã hội, mà
còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài, ví như ông bụt không
làm hại gì nhưng cũng không có lợi gì cho loài người. Do đó, việc rèn luyện
đạo đức phải đi đôi với việc phát triển tài năng và phát triển tài năng phải gắn
liền với việc rèn luyện đạo đức.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục,
không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: “Giáo dục
dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài
xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” [51, tr. 591]. Người chỉ rõ: “Giáo
dục chẳng những nhà trường phải phụ trách mà các cơ quan, đoàn thể và bố
mẹ học sinh cũng phải phụ trách” [52 , tr. 214] mà trước hết là các gia đình
(tức ông, bà, cha, mẹ, anh, chị) phải làm thật tốt công việc ấy. Người mong
muốn: “Các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi22
dục và khuyến khích các em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng
hái giúp nhân dân” [51, tr. 186]. Còn các Đảng uỷ và hợp tác xã phải phụ
trách chỉ đạo thiết thực và thường xuyên. Uỷ biên Thiếu niên nhi đồng, Đoàn
thanh niên, ngành giáo dục và các ngành, các đoàn thể cần có kế hoạch
chăm sóc, giúp dục con em mình ngày càng khoẻ mạnh và tiến bộ. Các Tỉnh
uỷ, Thành uỷ cần phụ trách đôn đốc việc này cho có kết quả. Vì tương lai
của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc
và giáo dục các cháu cho tốt”. [52 , tr. 579].
Phương pháp tu dưỡng đạo đức suốt đời: Một nền đạo đức mới chỉ có
thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Hồ
Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi người tự nhận thấy sâu sắc
việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc sung sướng vẻ vang nhất trên
đời. Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc
lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo
đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách
mạng phải đòi hỏi mỗi người tự rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn,
trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình,
không tự lừa dối, huyễn hoặc, phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình
để phát huy và thấy rõ cái dở cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên
trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày.
Phương pháp nêu gương: Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của
truyền thống văn hoá phương Đông. Hồ Chí Minh cho rằng, trong bất cứ một
ngành nào, lĩnh vực nào phải đặc biệt chú trọng đạo làm gương. Người nói:
“Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức lãnh đạo cách
mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”[ 52, tr. 558]. Để làm được
như thế, phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất23
gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến
đấu, trong học tập,…bởi theo Người, từng giọt nước chảy về một hướng mới
thành suối, thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều này là chỉ
thấy ngọn mà không thấy nguồn. Người nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở
đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có” [ 52, tr.
549].
1.1.2. Những quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò con ngƣời
- Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là con người lao động, là nhân
dân cần lao. Hồ Chí Minh hiểu rõ nỗi khổ của người dân mất nước, người dân
nô lệ. Điều đó đã thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu
dân thoát khỏi ách nô lệ. Người tin tưởng con người là nhân tố quyết định tiến
bộ xã hội, quyết định sự thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội mới.
Không chỉ khẳng định vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh tôn vinh
nhân dân: Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
trong mọi hoạt động của mình, đấu tranh giải phóng nước nhà, xây đời sống
mới, tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải bắt đầu từ vốn con người, nếu không coi
trọng việc sử dụng “nguồn vốn” con người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại,
có quan hệ đến thành bại của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là
quan trọng, là trên hết. Mọi công việc của Đảng, của Chính phủ đều phải vì
dân, vì nước. Người cho rằng: Nếu nước đã được độc lập, mà dân không có tự
do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Trong Di chúc, Người còn căn dặn
Đảng ta phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi24
Với Hồ Chí Minh, Con người chân chính phải biết yêu thương đồng
loại. Đó là tiêu chí cao nhất của đạo đức con người nói chung. Điều này càng
phải được nhấn mạnh với những người cộng sản nói riêng. Nếu không thương
yêu con người thì không thể hy sinh cho sự nghiệp giải phóng con người.
Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền
thống nhân ái Việt Nam. Nó được gia tăng giá trị trong quá trình tiếp thu tinh
thần nhân văn của văn hóa phương Tây, được tô đậm hơn qua thực tiễn đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người Việt Nam. Suốt cuộc đời đấu
tranh không ngừng nghỉ, Hồ Chí Minh mang nặng một tình thương yêu đối
với con người. Đó cũng là công việc hàng ngày Người thường xuyên quan
tâm.
Lòng yêu thương, tin tưởng con người vô hạn của Hồ Chí Minh cũng
trên cơ sở thấy được vai trò quyết định của con người đối với lịch sử. Hồ Chí
Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, sức mạnh
của Đảng, của Nhà nước là dựa trên sức mạnh và sự ủng hộ của nhân dân.
Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với con người không chỉ ở chỗ thấy được vai
trò sức mạnh của nhân dân trong cách mạng mà còn ở chỗ thấy được những
khả năng tiềm ẩn trong con người. Tư tưởng về con người và hoạt động thực
tiễn cách mạng của Người luôn hướng đến việc hoàn thiện con người - mỗi
người và cả quần chúng nhân dân đông đảo - trở thành một lực lượng vô
địch, trở thành một sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng.
Sau khi giành lại được độc lập dân tộc, Chính quyền đã về tay nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu trong mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước phải quán triệt tinh thần lấy dân làm gốc, dân là
người chủ và là người làm chủ.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng25
Con người là mục tiêu giải phóng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục
tiêu đấu tranh của Hồ Chí Minh là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc
cho nhân dân. Đó là mục tiêu xuyên suốt và nhất quán trong cả lý luận và
hành động của Người.
Trong khi khẳng định mục tiêu cách mạng là giải phóng con người,
mang lại tự do, hạnh phúc cho con người, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng
định sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực hiện. Hồ Chí
Minh xác định: Cách mệnh là việc chung của cả quần chúng nhân dân. Vì
sống gần dân, ở giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, dân nguyện...
Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc và tin tưởng vững chắc rằng nếu nhân dân được
thức tỉnh và được tổ chức sẽ có sức mạnh vô địch. Từ năm 1921 trong Tuyên
ngôn của Hội Liên hiệp các thuộc địa Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh
em” [44, tr. 128]. Khi nhân dân được thức tỉnh nghĩa là khi dân khí mạnh thì
không có vũ khí nào có thể thắng nổi, nhân dân hoàn toàn có thể “đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta” [45, tr. 554].
Mục tiêu cho con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên vừa mang
tầm chiến lược lâu dài, vừa rất gần gũi, cụ thể, hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể từng giai đoạn
cách mạng. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là
giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Người nói: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy” [45, tr. 554]. Sau khi giành chính
quyền về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại
được ưu tiên hơn. Mục tiêu đáp ứng những nhu cầu đời sống hàng ngày cho
người dân cũng luôn luôn cần hướng tới cái lớn lao, trọn vẹn của lý tưởng.
Ngược lại, mục tiêu cao xa cũng không được “quên” những nhu cầu về đời
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi26
sống vật chất và tinh thần hàng ngày. Mục tiêu hàng ngày, từng chặng là cơ
sở để từng bước tiến đến mục tiêu lâu dài.
Mục tiêu cho mỗi cá nhân con người nằm trong và phụ thuộc vào
mục tiêu của đất nước, dân tộc. Nếu độc lập dân tộc và CNHX là mục tiêu
lâu dài của đất nước thì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc là mục tiêu cho
mỗi con người Việt Nam. Con người là mục tiêu cách mạng, nên mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng
của con người. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy
cũng phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân cũng phải hết sức tránh.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, những con người được giác ngộ và tổ
chức mới có thể trở thành động lực của cách mạng. Họ phải có trí tuệ và bản
lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên truyền thống lịch sử và văn hoá
hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. cần học văn hoá,
chính trị, kỹ thuật”. “ Người có học thức mới có tiến bộ. Càng học càng tiến
bộ” [47, tr. 99]. Con người vừa là động lực của cách mạng được nhìn nhận
trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công
nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc và xây dựng CNXH.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán coi con người vừa là
động lực vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam theo tinh thần cách mạng
và khoa học. Con người là mục tiêu là động lực của sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản
xuất là con người có trình độ, trí tuệ và tay nghề cao. Đầu tư phát triển nguồn
nhân lực là đầu tư quan trọng nhất và có hiệu quả nhất, là yếu tố quyết định
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Muốn phát triển
nhanh, bền vững, thực hiện “đi tắt, đón đầu”, không có con đường nào khác là27
phải dựa vào “nguồn vốn” quý giá nhất là con người Việt Nam với truyền
thống yêu nước, đạo đức, trí thông minh và tiềm năng sáng tạo...
1.2. Vai trò, ý nghĩa của chiến lƣợc xây dựng con ngƣời trong tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh thấy được tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố
con người đối với cách mạng. Nhiều nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh đều
khẳng định: Trong sự nghiệp cách mạng thì việc “xây dựng con người” là
một chiến lược, là điều kiện tiên quyết; trong sự nghiệp xây dựng con
người thì chiến lược giáo dục là ở vị trí hàng đầu. hay “Hồ Chí Minh rất
coi trọng chiến lược con người” (Phạm Văn Đồng - Những nhận thức cơ
bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Báo Nhân dân ngày 8-1-1998). “Tư tưởng
về con người của Bác là tư tưởng: “có dân thì có tất cả”, dựa vào dân, tin ở
dân, đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng đào tạo và phát huy mọi năng lực của
từng cá nhân và của cả cộng đồng dân tộc. Những tư tưởng ấy là nền tảng
chiến lược con người mà chúng ta hiện nay đang xây dựng”. [28, tr. 90].
Khi xác định vị trí, ý nghĩa chiến lược con người, tại lớp học chính trị
của các giáo viên cấp II, III toàn miền Bắc ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh nói:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người” [50, tr. 222]. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ
như Việt Nam, nông dân chiếm đa số thì sự nghiệp trồng người cho cuộc cách
mạng có tầm quan trọng đặc biệt. Hồ Chí Minh nói: “Muốn tiến lên CNXH thì
phải có con người XHCN, muốn có con người XHCN thì phải có tư tưởng
XHCN; muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì phải gột rửa tư tưởng cá nhân
chủ nghĩa” [50, tr. 303]. Chủ nghĩa xã hội là một quá trình xây dựng thể chế
chính trị, nền tảng vật chất, kỹ thuật, chỉ có thể đạt được khi tạo lập được
những điều kiện khách quan cho nó, không thể nóng vội, chủ quan, đốt cháy
giai đoạn. Con người XHCN có thể được hoàn thiện trước một bước so với
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi28
hoàn cảnh kinh tế - xã hội, nhưng phải có điều kiện. Một trong những điều kiện
đó là giáo dục và đào tạo.
Hồ Chí Minh nói về mục tiêu của chiến lược giáo dục và đào tạo
trong chiến lược con người: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định
rõ ràng như nhà kiến trúc” [52, tr. 551]. Mục tiêu đó nhằm đào tạo ra
những công dân tốt và cán bộ tốt. Những người kế tục xứng đáng sự nghiệp
cách mạng to lớn của đảng và nhân dân ta”. Mục tiêu đó được biểu hiện
thông qua mục tiêu cụ thể của từng đối tượng, từng nội dung, từng giai
đoạn, cấp học. Muốn đạt mục tiêu chiến lược thì nội dung, phương pháp
giáo dục phải toàn diện. Hồ Chí Minh nói: “Trong việc giáo dục và học tập,
phải chú trọng đủ các mặt đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [51, tr. 190]. Luận điểm này thể
hiện sự kết hợp giữa nội dung và phương pháp toàn diện, sự thống nhất
giữa lời nói và sự nêu gương thực hành, giữa nhận thức và hành động, giữa
tư tưởng và lối sống, nếp sống.
Cùng với việc khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên là điều cần được quan tâm trước hết của sự nghiệp trồng người.
Trong diễn văn khai mạc lớp học sinh lý luận khoá I Trường Đảng
Nguyễn Ái Quốc ngày 7-9-1957, Hồ Chí Minh nhấn mạnh mối quan hệ mật
thiết giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng và coi đây là một trong những
yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “tiến
lên CNXH phải có người, mà trong số người muốn tiến CNXH thì cán bộ là
đầu tiên và cốt cán” [50, tr. 279]. “công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém” [47, tr. 273].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên là một nội dung cơ bản của chiến lược con người, trong đó quan29
điểm nổi bật nhất có tính bao quát là giáo dục toàn diện để mỗi cán bộ, đảng
viên trở thành “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
có đủ cả đức và tài.
Tầm chiến lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
còn thể hiện ở sự quan tâm thường xuyên đến việc chăm lo, giáo dục - đào tạo
(GD – ĐT) thế hệ trẻ, người chủ tương lai của nước nhà. Công việc giáo dục,
chăm sóc thế hệ trẻ luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trong những ngày độc lập đầu tiên, Hồ Chí Minh đã viết hai bức thư
nhân dịp tết trung thu gửi thiếu nhi Việt Nam. Hàng năm, dù ở chiến khu
kháng chiến hay ở thủ đô Hà Nội, những khi trung thu, những dịp khai
trường, những ngày lễ lớn,… Hồ Chí Minh đều viết thư, tặng quà, gặp gỡ
thiếu niên, nhi đồng. Thể hiện tình thương yêu không bờ bến của Người đối
với thế hệ trẻ, nhiều lần Người tự bạch: “tui không có gia đình, cũng không
có con cái, tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi” [47, tr. 40]. Lòng
yêu thương, sự tin tưởng đối với thế hệ trẻ kết hợp với tầm chiến lược, Hồ Chí
Minh đã để lại di sản tư tưởng có giá trị về chiến lược xây dựng thế hệ trẻ:
phải coi trọng giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ có tri thức văn hoá, khoa học, kỹ
thuật giỏi, có đạo đức cách mạng, làm cho họ là những người kế tục xứng
đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, vừa “hồng” lại vừa
“chuyên”. Chiến lược con người phải hướng vào thế hệ trẻ từ nhi đồng, thiếu
niên, thanh niên, đoàn viên, trong sự kế thừa giá trị truyền thống dân tộc: đạo
sinh người - dạy người và làm người; đã biết sinh người thì phải biết dạy cho
nên người và từ đó để biết làm người, một công dân tốt, một người có ích cho
gia đình và xã hội.
Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà… Thanh
niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện
tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi30
[47, tr. 185]. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho con người, đầu tư
cho con người là đầu tư cho phát triển, cho tương lai. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: Con người là vốn quý nhất. Muốn lời to thì phải vốn to. Ta còn nghèo
nhưng phải cố gắng đầu tư vào sự nghiệp đào tạo ra con người. Ta phải chắt
chiu từng đồng xu nhưng ta không được bủn xỉn trong việc này. Các bài viết,
bài nói của Người: Thư gửi các thanh niên 17-8-1947; Bài nói tại Đại hội
sinh viên Việt Nam lần thứ hai, ngày 7-5-1958; Thư gửi thiếu niên, nhi đồng
toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập đội thiếu niên tiền phong
ngày 14-5-1961; Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Đoàn thanh niên
lao động Việt Nam ngày 24-3-1961; Thư gửi thanh niên ngày 2-9-1965; Thư
gửi cán bộ, cô giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm
học mới” ngày 16-10-1968... là những dẫn chứng tiêu biểu cho thấy những
luận điểm lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, nội dung và cả
những phương pháp cần áp dụng của sự nghiệp bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ.
Trước lúc đi xa, Người đã để lại bản Di chúc lịch sử, gửi gắm chúng ta và các
thế hệ mai sau: Đầu tiên là công việc đối với con người và Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Đó chính
là sự nghiệp “trồng người” của toàn Đảng, toàn dân ta vì lợi ích trăm năm,
trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng.
Trong bối cảnh kinh tế tri thức đóng vai trò chủ yếu trong sự phát triển
của nhân loại, vai trò con người càng có ý nghĩa quan trọng. Trước diễn biến
của cuộc cách mạng công nghệ toàn cầu, của việc hội nhập một cách toàn
diện, một nhiệm vụ khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt chính là phát triển
con người có đủ trình độ để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bồi dưỡng con người có ý nghĩa
về cả lý luận và thực tiễn.31
Chƣơng 2
XÂY DỰNG CON NGƢỜI VIỆT NAM THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT
NƢỚC
2.1. Những yêu cầu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc và thực trạng về con ngƣời
2.1.1. Những yêu cầu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá VII (1-1994) đã nêu
khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá: “Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao” [13, tr. 65]. Định nghĩa này đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá; xác
định được vai trò của khoa học - công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái
cốt lõi của công nghiệp hoá là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao
động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động cao.
CNH, HĐH không đơn thuần là quá trình kinh tế - kỹ thuật, kỹ thuật - công
nghiệp, kinh tế - xã hội mà còn là một quá trình văn hoá, sâu xa hơn còn là
quá trình chuyển hoá chất lượng nguồn nhân lực và những mẫu nhân cách
hiện đại theo hướng xác định con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi32
Là một nước có điểm xuất phát thấp, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật
còn lạc hậu, trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh, Việt Nam không thể lặp lại quá trình công nghiệp hoá một cách tuần
tự như các nước khác trên thế giới. Việt Nam phải xác định cho mình con
đường riêng. Công nghiệp hoá ở Việt Nam cần và có thể đi thẳng vào hiện
đại hoá để đồng thời trong quá trình công nghiệp hoá tạo ra sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, trang bị công nghệ theo hướng hiện đại, rút ngắn quá trình
chuyển nền kinh tế - xã hội lạc hậu thành nền kinh tế - xã hội tiên tiến.
Nghị quyết cũng xác định: “Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là cải biến nước ta thành một nước có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện
đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng -
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ , công bằng, văn
minh” [13, tr. 70]
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đã nhận định: “Nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá (CNH) đã cơ bản
hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước” [14, tr. 67 - 68].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) tiếp tục
bổ sung, phát triển đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được định hình
những nét cơ bản tại Hội nghị Trung ương VII khoá VII và Đại hội VIII.
Chiến lược phát triển kinh tế 2001 - 2010 nhấn mạnh: “Con đường CNH,
HĐH của Việt Nam cần có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần
tự, vừa có bước nhảy vọt” [16, tr. 91]. Điều kiện và biện pháp để thực hiện
bước đi tuần tự, vừa có tính chất nhảy vọt là: “phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là33
công nghệ thông tin… Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần Việt
Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp CNH, HĐH” [16, tr. 91]
Những quan điểm về CNH, HĐH đất nước tiếp tục được Đại hội IX (4-
2001) thể hiện toàn diện và cụ thể hơn: “CNH, HĐH đất nước phải đảm bảo
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối,
chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích luỹ ngày càng
cao từ nội bộ nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu
hạ tầng ngày hiện đại và có một ngành công nghiệp nặng then chốt… Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế; kết hợp
nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” [16, tr.
91 - 92]. Để phát triển nhanh và bền vững, chúng ta không có sự lựa chọn nào
khác là phải tiếp cận nhanh với tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để
hiện đại hoá nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH, từng bước hình thành kinh tế tri thức, có năng lực cạnh tranh với
giá trị gia tăng ngày càng cao.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) đã tổng
kết 20 năm đổi mới, trong đó có 10 năm chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện mục tiêu tổng quát: “Đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao tính
hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất,
văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh CNH, HĐHvà phát triển kinh tế
tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020” [17, tr. 186], Đại hội X chủ trương: “Đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức” [17, tr. 87]; “Tranh thủ
cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của Việt Nam
để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi34
(XHCN) gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố
quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH [17, tr. 87].
Yêu cầu cụ thể của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành các sản phẩm kinh tế có giá trị cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người
Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi
bước phát triển của đất nước, ở từng vùng từng địa phương, trong từng dụ
án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và
lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành, lĩnh vực nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1-2011) đã nêu mục
tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị xã ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt;
độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để
phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp sau” [18, tr. 103]. “Từ nay đến giữa thế
kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng
XHCN” [18, tr. 71].
Đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH đất nước đặt ra yêu cầu phải nhận
thức một cách sâu sắc, đầy đủ ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ
thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần.
Nền CNH, HĐH phải nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện.
Con người không chỉ được hiểu với tư cách là người lao động sản xuất mà35
còn với tư cách là công dân của xã hội. Đó không chỉ là đội ngũ những người
lao động có năng suất cao những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật,
các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó
còn là tất cả những công dân yêu nước cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung.
Thành tựu công nghiệp hoá đã tạo tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng
bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá và xã hội, quốc phòng và an ninh. CNH,
HĐH tạo điều kiện cho giáo dục phát triển theo hướng hiện đại phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Thành công của sự nghiệp này là nhân tố quyết
định sự thắng lợi của con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
2.1.2. Thực trạng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Những thành tựu về đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước
Hiện nay, nguồn nhân lực là trí thức, công chức, viên chức của cả nước
có khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo
sư; 16.000 thạc sỹ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129
giảng viên đại học, cao đẳng trong đó có 49% giảng viên đại học có trình độ
thạc sỹ trở lên. Cả nước có 14.000 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200
giáo viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ thông. Trong số 9.000 tiến sĩ
được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực sự làm chuyên
môn [63, tr. 61]. “Tính đến cuối năm 2013, tổng số lao động đang làm việc
trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân là khoảng 53,9 triệu người, trong
đó lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 47,4%. Hệ thống dạy
nghề trong cả nước đã có bước phát triển đáng kể. Số trường trung cấp nghề
và cao đẳng nghề đã tăng từ 156 trường năm 2001 lên 465 trường năm 2013,
trong đó cao đẳng nghề là 165 trường. Số lượng học viên đăng ký học nghề
không ngừng tăng lên, đạt trên 1,7 triệu người vào năm 2013, trong đó trình
độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề chiếm 15%. Theo đánh giá của các danh
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những nguyên tắc đó để rèn luyện đạo đức cá nhân Môn đại cương 0
D Tư tưởng hồ chí minh vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản vào công cuộc xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay Môn đại cương 0
D Tìm hiểu sự vận dụng của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản trong việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay Môn đại cương 0
D Những phẩm chất đạo đức cơ bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh Vận dụng những phẩm chất này vào xây dựng đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay? Môn đại cương 0
D tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng ta, liên hệ bản thân Y dược 0
D Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó và xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay Môn đại cương 1
D vận dụng một số phương pháp giải toán hình học không gian lớp 11 nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho Luận văn Sư phạm 0
D tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về điện toán đám mây và cách vận dụng nó hiệu quả Hỏi đáp Tin học 0
N Vận dụng một số phương pháp thống kê vào phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần Đầu tư Công đoàn BIDV giai đoạn 2003 -2008 Luận văn Kinh tế 3
A Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta Công nghệ thông tin 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top