tron_hoc

New Member
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN



Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá” được miêu tả trong bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:



”Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”



Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Bài thơ đã dụng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.



Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ơ câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa lớn ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.



Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.



“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”



Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc.



Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.



Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ.







Phân tích bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”của Huy Cận:



Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Thông qua một đêm đánh cá của một đoàn thyền trên biển, nhà thơ ca ngợi không khí lao động mới, tràn đầy niềm lạc quan, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la.



Bài thơ đã dựng được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc những năm đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bài thơ mở đầu bằng cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” và kết thúc bằng hình ảnh “Mặt trời đội biển như màu nước-mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”. Như vậy là cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá diển ra trong một đêm ròng. Thế nhưng, bài thơ là một bức tranh với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng lạ thường. Đánh cá trên biển mênh mông thực chất là một công việc lao động nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà cả bài thơ là một khúc ca sảng khoái, tràn đầy niềm vui, phối hợp nhạc điệu với những động tác khoẻ mạnh, dồn dập. Bài thơ lặp lại nhiều lần chữ “hát”, và tiếng hát đã thực sự trở thành âm thanh chủ đạo của bài thơ.



Cùng với tiếng hát được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, trong bài thơ này, tác giả còn tập trung miêu tả hình ảnh những con cá, những đàn cá gợi lên một bức tranh sinh động về cảnh biển giàu, đẹp. Hình ảnh đàn cá liên tiếp suất hiện, lấp lánh ánh sáng màu sắc như một bức sơn mài:



“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày đệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!



Cá nục cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em vẩy trắng vàng choé

Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”



Giữa khung cảnh biển đêm mênh mông, hình ảnh con người lao động xuất hiện với tư thế làm chủ biển khơi, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh họ xuất hiện thật gân guốc, khoẻ khoắn: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng - Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã dựng lên hình ảnh những người con lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ tru và hoà hợp với khung cảnh trời nước bao la:



“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”



Trên cái không gian bát ngát, con thuyền có buồn là trăng, được lái bằng gió lướt sóng đi phơi phới, gợi lên niềm vui niềm tự hoà chân chính của con người mới, làm chủ thiên nhiên, hăng say lao động làm giàu cho Tổ quốc. Huy Cận đã nhìn cảnh đánh cá trên biển khơi bằng con mắt lạc quan phơi phới của mình.



Sau một đêm đánh cá trên biển, bình minh lên, đoàn thuyền đánh cá lại trở về bến bãi. Vẫn là câu hát nhưng đây là câu hát tràn ngập niềm vui của con người sau một đêm lao động khẩn trương và đạt sản lượng mong muốn. Thiên nhiên như chia sẻ niềm vui đó: ”Câu hát căng buốm cùng gió khơi” và cảnh trở nên vô cung sinh động. Trên mặt biển mênh mông, đoàn thuyền lao vùn vụt: ”Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền như chạy đua cùng với thời gian với niềm vui háo hức để trở về với bến bờ đang nhộn nhịp đón chờ....



Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn khởi trước những thành quả lao động của mình. Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ là hình ảnh conngười mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất để làm giàu cho tổ quốc, gắn với biển cả quê hương.
 

Nisien

New Member
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm

1.Tác giả

- Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở Ân Phú, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng ( 1940 ).



- Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945. Ông được trao tặng giải thưởng Hồ chí Minh về văn học nghệ thuật ( 1996 ). Ông mất năm 2006, tại Hà Nội




- Tác phẩm chính: Lửa thiêng ( 1940 ); Trời mỗi ngày lại sáng ( 1958 ); Đất nở hoa ( 1960 ); Những năm sáu mươi ( 1968 ); Chiến trường gần đến chiến trường xa ( 1973 ); Nước thủy triều Đông (1994 )…



2.Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.



- Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của Huy Cận. Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu vào cuộc sống mới bao trùm cả đời sống xã hội và trở thành niềm cảm hứng của thơ ca. Nhiều nhà thơ đi đến các vùng đất xa xôi, nơi đang dấy lên phong trào sản xuất xây dựng đất nước. Giữa năm 1958 huy Cận có chuyến đi thực tế tại dài ngày về vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.



- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được ra đời vào thời gian này và in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng ( 1958 )



II.Phân tích bài thơ

1.Bố cục bài thơ

- Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm, khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh.



- Với bố cục bài thơ như trên, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã tạo một khung cảnh không gian và thời gian và thời gian rất đáng chú ý: không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, mây, gió, trăng, sao; thời gian là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả đất trời vào đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa…rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới. Điểm nhịp cho công việc của đoàn thuyền đánh cá là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ.



2.Hình ảnh con người lao động trong sự hài hòa với thiên nhiên vũ trụ



- Bài thơ là sự kết hợp hai nguồn cảm hứng: về lao động và về thiên nhiên vũ trụ. Khác với thơ Huy Cận trước Cách mạng, ở đây thiên nhiên vũ trụ không đối lập với con người, không làm cho con người trở lên nhỏ bé cô đơn, mà càng nâng cao, làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trong sự hài hòa với khung cảnh thiên nhiên.



+ Hình ảnh con người lao động và công việc của họ, ở đây là đoàn thuyền đánh cá, được đặt vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao, để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc và vị thế của con người. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo hình ảnh về người lao động




-Câu hát căng buồm cùng gió khơi

-Thuyền ta lái gió với buồn trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

-Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời + Sự hài hòa giữa con người lao động và thiên nhiên, vũ trụ còn thể hiện ở sự nhịp nhàng giữa điệu vận hành của thiên nhiên, vũ trụ và trình tự của công việc lao động của đoàn thuyền đánh cá. Khi mặt trời xuống biển, vũ trụ vào đêm cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, và đây là công việc diễn ra thường xuyên, đều đặn như một nhịp sống đã quen thuộc: “ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”.



Con thuyền ra khơi có gió làm lái, trăng làm buồm, gõ thuyền đuổi cá vào lưới cũng theo nhịp trăng, sao. Đến lúc sao mờ, tức là đêm sắp tàn thì cũng là lúc kéo lưới kịp trời sáng. Bình minh lên, mặt trời đội biển, cũng là lúc đoàn thuyền trở về, tuy nặng khoang cá đầy mà vẫn lướt đi phơi phới chạy đua cùng mặt trời




- Hình ảnh người lao động trong bài thơ được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui trước cuộc sống mới. Cảm hứng lãng mạn ấy cũng thấm đẫm trong những hình ảnh về thiên nhiên vũ trụ, tạo nên vẻ đẹp tráng lệ, phóng khoáng mà vẫn gần gũi với con người.



3.Vẻ đẹp của những hình ảnh thơ về thiên nhiên và lao động



a.Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người bằng một liên tưởng so sánh thú vị của nhà thơ:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là cánh tấm cửa lớn với những lượn sóng là then cửa. Chi tiết mặt trời xuống biển có thể gây thắc mắc với người đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà bờ biển nước ta, trừ vùng biển Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ con thuyền đang ra biển hay từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển vẫn có thể thấy như mặt trời xuống biển.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi ( câu thơ này đã được lặp lại ở khổ cuối bài thơ, chỉ đổi chữ cùng thành với )



b.Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển

Tác giả đã phát hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm vui phơi phới khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình. Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ khổnglồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển, dàn đan thế trận…

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa bò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

…Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặngc.Đẹp lộng lẫy và rực rỡ đến huyền ảo là hình ảnh của những loài cá trên biển, giữa ánh trăng, sao và ánh nắng lúc rạng đông. Đây là những bức tranh sơn mài lung linh huyền ảo, được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực.

…Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

…Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

…Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

…Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi Tóm lại: Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ cho ta thấy cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên, đất nước và con người lao động, làm giàu thêm cách nhìn cuộc sống, biểu hiện niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình





Nguồn: Sưu tầm

 

hoxuan_tai

New Member
Hix:((hnọ vứa mới kiểm tra cái bài này:((.Biết thế lên đây đọc có khi lại k fải bị điểm kém nên í:((
 

thanhbinh_an

New Member
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ



Bài làm



Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài , lời đề tài ấy trong bài thơ Tràng Giang đã trở thành một truyện ngắn về cảm hứng không gian, cảm ứng vũ trụ luôn ngự trị trong thơ Huy Cận. Mặc dù từ “lửa thiêng” tới “trời ngày lại sáng” là cả một bước chuyển dài tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Nhưng cảm hứng vũ trụ vẫn luôn là một đặc điểm không thay đổi trong thơ ông. Nếu nói tới Xuân Diệu là nói tới cảm xúc về thời gian thì với Huy Cận, không gian luôn là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tư tưởng nghệ thuật của mình.



Trong “lửa thiêng”, hình ảnh của không gian thường gắn bó với cảm giác cô đơn, rợn ngợp : “lòng quê dờn dợn vời con nước”. đến “trời mỗi ngày lại sáng” đã có những thay đổi nhất định, cảm xúc về không gian. Nhiều nhà phê bình đều khẳng định : “Đoàn thuyền đánh cá” là một thành công trong giai đoạn sáng tác mới của nhà thơ Huy Cận xúc cảm về không gian, nhưng đoàn thuyền đánh cá, lại mang một hình ảnh không gian mới mẻ, huy hoàng, đầy khoáng đạt và đậm đà bút pháp tượng trưng Huy Cận.



Một trong những yếu tố khắc họa sự huy hoàng và mới mẻ của không gian tạo nên ấn tượng về một cuộc sống mới sôi nổi và đầy hứng khởi trong bài thơ là sự có mặt của một loạt những từ ngữ miêu tả màu sắc được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm.

Trong “Tràng Giang” , gắn với cảm giác cô đơn rợn ngợp trước không gian là những từ ngữ gợi liên tưởng về sự chia lìa trăm ngả của nước và sóng, của nắng và trời, của sông và bến- Những sự vật ngỡ chẳng bao giờ có thể tách rời nhau. Đến “ Đoàn thuyền đánh cá”, để khắc họa cảm giác tự do phóng khoáng bay bổng, tư thế làm chủ, tinh thần tự tin và đặc biệt khắc họa không gian ấm áp , sôi động và tràn đầy sức sống, nhà thơ đã dùng một loạt những từ ngữ chỉ màu sắc với mức độ sắc thái ý nghĩa tuyệt đối đầy thú vị.



Mở đầu là màu sắc của mặt trời khi xuống biển : Mặt trời xuống biển như hòn lửa.



Bằng hình ảnh so sánh “như hòn lửa” cả không gian mặt biển trong giây phút cuối cùng của một ngày được khắc họa đầy đủ và thật ấn tượng. hình ảnh như hòn lửa không chỉ gợi màu sắc mà còn gợi cả hình khối – một hình khối huy hoàng tương phản với màn đêm đang loang ra trên mặt biển : “sóng đã cài then đêm sập cửa” làm người đọc bị cuốn hút ngay từ những giây phút đầu tiên khi tiếp xúc với bài thơ. Ta cũng đã từng gặp màu sắc của mặt trời tương tự trong một bài thơ mới: “Đầu những chiều lênh láng máu sau rừng / Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” (Nhớ rừng- Thế Lữ). Khác chăng mặt trời trong “Nhớ rừng” chỉ được miêu tả như một vầng sáng chói lòa của ký ức.



Bắt đầu từ hình ảnh mặt trời xuống biển, cả bài thơ là một bức tranh mà gam màu chủ đạo là màu vàng với các mức độ lấp lánh khác nhau:



- Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

- Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

- Vẫy bạc đuôi vàng lóe rạng đông.

- Mặt trời đội biển nhô màu mới.

- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.



Bên cạnh những tính từ “lấp lánh”, “đen hồng”, ‘sáng’, “vàng chóe”, “bạc”, vàng là những danh từ rạng đông, màu mới. Sự xuất hiện của các từ ngữ miêu tả này cũng theo một trình tự nhất định : Từ ấn tượng chung : luồng sáng đến những chi tiết miêu tả cụ thể : Trăng –vàng chóe, lóe rạng đông và cuối cùng, tất cả những ánh sáng ấy hội tụ trong một hình ảnh : “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Nhưng câu thơ và sự có mặt của các từ ngữ ấy không chỉ để khẳng định sự giàu đẹ của vùng biển quê hương mà còn góp phần xây dựng biểu tượng về cuộc sống mới – một cuộc sống dựng xây đầy phấn khởi say sưa với một cảm hứng lãng mạn và vô cùng bay bổng.



Kết thúc bài thơ là đoàn thuyền trở về sau một đêm lao động. Tràn ngập không gian là một câu hát khỏe khoắn yêu đời. Đặc biệt, hình ảnh mặt trời với màu sắc rất riêng với những xúc cảm của tâm hồn tác giả - đã khép lại trọn vẹn một ngày làm việc và mở ra một không gian lao động mới. Kiểu kết hợp hai từ không cùng một phạm vi biểu đạt “màu mới” gợi nhiều liên tưởng cho người đọc về hình ảnh một cuộc sống mới, một sự đổi thay đầy lạc quan, một không gian “trời mỗi ngày lại sáng”.



Chính vì thế, hình ảnh cuối cùng kết thúc bài thơ là hình ảnh mà màu sắc của nó choáng ngợp toàn bộ không gian “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Lối nói khoa trương rất Huy Cận đã thực sự mang lại hiệu quả thẩm mỹ cho bài thơ. Chính không khí say sưa khôi phục và phát triển kinh tế những năm đầu thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất là điểm tựa của cảm hứng lãng mạn trong “ Đoàn thuyền đánh cá”. Cảm hứng ấy đã làm nên linh hồn của bức tranh không gian trong bài thơ. Xuân Diệu cũng đã từng diễn đạt cảm hứng này bằng một màu sắc dựng xây “ ngói mới”. Có lẽ với Huy Cận, sắc vàng rực rỡ đầy mãnh lực là gam màu chủ đạo đầy cuốn hút, đủ khả năng biểu đạt chính xác những gì ông cảm nhận được từ cuộc sống mới. Màu sắc ấy đã làm cho không gian vũ trụ trong “Đoàn thuyền đánh cá” không còn lạnh lẽo, cô đơn mà trở nên rực rỡ, ấm áp hơi thở của cuộc sống.



Cùng với các yếu tố nghệ thuật khác, hệ thống từ ngữ miêu tả màu sắc trong “Đoàn thuyền đánh cá” đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện tư tưởng chủ đạo của bài thơ.
 
A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN



1. Tác giả


- Tên thật : Cù Huy Cận( 1919- 2005)

- Quê : Nghệ Tĩnh.

- Là nhà thơ lớn của phong trào thơ mới.

- Tham gia cách mạng từ trước 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng.

- Thơ Huy Cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.



2. Tác phẩm


a. Nội dung

1. Cảnh ra khơi

- Khung cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ vừa hùng vĩ đầy sức sống.

- Có sự đối lập giữa vũ trụ và con người:

Vũ trụ nghỉ ngơi >< con người lao động.

- Khí thế của những con người ra khơi đánh cá mạnh mẽ tươi vui, lạc quan, yêu lao động.

- Diễn tả niềm vui yêu đời, yêu lao động, yêu cuộc sống tự do, tiếng hát của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.



2. Cảnh đánh cá

- Khung cảnh biển đêm: Thoáng đãng lấp lánh, ánh sáng đẹp, vẻ đẹp lãng mạn kỳ ảo của biển khơi.

- Biển đẹp màu sắc lấp lánh: Hồng trắng, vàng chóe, vảy bạc, đuôi vàng loé rạng đông.

- Cảnh lao động với khí thế sôi nổi, hào hứng, khẩn trương, hăng say.

- Tinh thần sảng khoái ung dung, lạc quan, yêu biển, yêu lao động.

- Âm hưởng của tiếng hát là âm hưởng chủ đạo, niềm yêu say mê cuộc sống, yêu biển, yêu quê hương, yêu lao động.

- Nhịp điệu khoẻ, đa dạng, cách gieo vần biến hoá, sự tưởng tượng phong phú, bút pháp lãng mạn.



3. Cảnh trở về (khổ cuối)


- Cảnh kỳ vĩ, hào hùng, khắc hoạ đậm nét vẻ đẹp khoẻ mạnh và thành quả lao động của người dân miền biển.

- Ra đi hoàng hôn, vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi.

- Sau một đêm lao động miệt mài, họ trở về trong cảnh bình minh, mặt trời bừng sáng nhô màu mới, hình ảnh mặt trời cuối bài thơ là hình ảnh mặt trời rực rỡ với muôn triệu mặt trời nhỏ lấp lánh trên thuyền: Một cảnh tượng huy hoàng của thiên nhiên và lao động.



b. Về nghệ thuật


Bài thơ được viết trong không khí phơi phới, phấn khởi của những con người lao động với bút pháp lãng mạn, khí thế tưng bừng của cuộc sống mới tạo cho bài thơ một vẻ đẹp hoành tráng mơ mộng.



c. Chủ đề:
Cảm hứng về lao động mới.



B. CÁC DẠNG ĐỀ



1. Dạng đề 2 điểm


Đề 1.

a. Nêu tên tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.

b. Cảm hứng về lao động của tác giả đã tạo nên những hình ảnh đẹp tráng lệ, giàu màu sắc lãng mạn về con người lao động trên biển khơi bao la. Hãy chép lại các câu thơ đầy sáng tạo ấy.



Gợi ý:


a. HS nêu được:

- Tác giả của bài thơ: Huy Cận

- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Huy Cận có một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ được ra đời từ chuyến đi thực tế đó.

b. Học sinh phải chép đúng và đủ các câu thơ viết về con người lao động trên biển khơi bao la bằng bút pháp lãng mạn:

- Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

- Thuyền ta lái gió với buồm trăng.

Lướt giữa mây cao với biển bằng

- Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.



2. Dạng đề 5 điểm



Đề 1: Vẻ đẹp và sức mạnh của người lao động trước thiên nhiên - vũ trụ trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.



Gợi ý:


a. Mở bài:

- Nêu những nét chính về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

- Bài thơ đã khắc họa được vẻ đẹp và sức mạnh của người lao động trước thiên nhiên- vũ trụ kỳ vĩ.

b. Thân bài

* Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ: đẹp, rộng lớn, lộng lẫy.

- Cảm hứng vũ trụ đã mang đến cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên hoành tráng.

- Cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh bình minh được đặt ở vị trí mở đầu, kết thúc bài thơ vẽ ra không gian rộng lớn mà thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ.

- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi: không phải là con thuyền mà là đoàn thuyền tấp nập.

-> Con thuyền không nhỏ bé mà kì vĩ, hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ.

- Vẻ đẹp rực rỡ của các loại cá, sự giàu có của biển cả. Trí tưởng tượng của nhà thơ đã chắp cánh cho hiện thực, làm giàu thêm, đẹp thêm vẻ đẹp của biển khơi.

* Người lao động giữa thiên nhiên cao đẹp.

- Con người không nhỏ bé trước thiên nhiên mà ngược lại, đầy sức mạnh và hoà hợp với thiên nhiên.

- Con người ra khơi với niềm vui trong câu hát.

- Con người ra khơi với ước mơ trong công việc.

- Con người cảm nhận được vẻ đẹp của biển, biết ơn biển

- Người lao động vất vả nhưng tìm thấy niềm vui, phấn khởi trước thắng lợi.



c. Kết bài:

- Hình ảnh người lao động được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn cho thấy niềm vui phơi phới của họ trong cuộc sống mới.

- Thiên nhiên và con người phóng khoáng, lớn lao. Tình yêu cuộc sống mới của nhà thơ được gửi gắm trong những hình ảnh thơ lãng mạn đó.



D. BÀI TẬP VỀ NHÀ




1.Dạng 2 điểm




Đề 2:
Hai câu thơ:“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa”

được tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Cho biết tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy.

Gợi ý:

Hai câu thơ sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh và nhân hoá.

- “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”

+ “Mặt trời” được so sánh như “hòn lửa”-> hoàng hôn trong thơ Huy Cận không buồn hiu hắt mà ngược lại, rực rỡ, ấm áp.

- “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

+ Biện pháp nhân hoá, gán cho sự vật những hành động của con người sóng “cài then”, đêm “sập cửa”-> Gợi cảm giác vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với màn đên buông xuống là tấm cửa lớn và những gợn sóng là then cài cửa. Con người đi trong biển đêm mà như đi trong ngôi nhà thân thuộc của mình.



Đề 3:

a. Chép chính xác 4 câu cuối bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận.

b. Viết đoạn văn khoảng 10 câu, diễn tả cảm nhận của em về vẻ đẹp của những câu thơ vừa chép ở trên.



2. Dạng 5 điểm
.

Đề 2:

Suy nghĩ của em về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá " của Huy Cận.

a. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

- Cảm nhận chung về nội dung và nghệ thuật chính của bài thơ.

b. Thân bài:

* Cảnh ra khơi:

- Khung cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ vừa hùng vĩ đầy sức sống.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa”

- Cảnh người lao động ra khơi : Mang vẻ đẹp lãng mạn, thể hiện tinh thần hào hứng và khẩn trương trong lao động.

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi"

* Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:

- Cảm nhận về biển : Giàu có và lãng mạn (đoạn thơ tả các loài cá, cảnh thuyền đi trên biển với cảm xúc bay bổng của con người

Lướt giữa mây cao với biển bằng

- Công việc lao động vất vả nhưng lãng mạn và thi vị bởi tình cảm yêu đời yêu biển của ngư dân. Họ coi đó như một cuộc đua tài

"Dàn đan thế trận lưới vây giăng"

* Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:

- Hình ảnh thơ lặp lại tạo nên một lối vòng khép kín với dư âm của lời hát lạc quan của sự chiến thắng.

- Hình ảnh nhân hóa, nói quá: "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời ". Gợi vẻ đẹp hùng tráng về nhịp điệu lao động khẩn trương và không khí chiến thắng sau đêm lao động miệt mài của các chàng trai ngư dân.

- Cảnh bình minh trên biển được miêu tả thật rực rỡ, con người là trung tâm bức tranh với tư thế ngang tầm vũ trụ và hình ảnh no ấm của sản phẩm đánh bắt được từ lòng biển

" Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi"

c. Kết bài:

Khẳng định đây là bài ca lao động yêu đời phơi phới của người ngư dân sau những ngày giàng được tự do với ý thức quyết tâm xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.



Đề 3

Cảm nhận của em về hình ảnh những con người lao động mới trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá " của Huy Cận.
 
I. Đọc, tìm hiểu chung về văn bản



1. Tác giả - tác phẩm (1919)




- Tên thật : Cù Huy Cận

- Gia đình nhà nho

- Quê : Nghệ Tĩnh.

- Là nhà thơ lớn của phong trào thơ mới

Một số tác phẩm chính:

- Lửa thiêng, 1940

- Trời mỗi ngày mỗi sáng, 1958.

- Đất nở hoa, 1960.

-Hai bàn tay em, 1967.

- Bài ca cuộc đời, 1963.

- Gieo hạt, 1984.

- Ngày hằng sống ngày thơ, 1975.

- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ngày 4-10-1958 ở Quảng Ninh, in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Xuân Diệu nói: “món quà đặc biệt vùng mỏ Hồng Gai Cẩm Phả cho vừa túi thơ của Huy Cận là bài Đoàn thuyền đánh cá”.



2. Đọc - chú thích (SGK)



3. Bố cục




Bài thơ có thể chia làm 3 phần

Khổ 1-2: Cảnh ra khơi.

Khổ 3-6: Cảnh đoàn thuyền đánh cá.

Khổ 7: Cảnh trở về.



II. Đọc, tìm hiểu tác phẩm



1. Cảnh ra khơi




- Khung cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ vừa hùng vĩ đầy sức sống.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

- Nghệ thuật so sánh nhân hoá: vũ trụ như một căn nhà lớn bước vào trạng thái nghỉ ngơi.

- Có sự đối lập giữa vũ trụ và con người: Vũ trụ nghỉ ngơi >< con người lao động.

Sóng cài then đêm sập cửa… lại ra khơi (vần trắc thanh trắc>< vần bằng thanh bằng)

Khí thế của những con người ra khơi đánh cá mạnh mẽ tươi vui, lạc quan, yêu lao động.

Diễn tả niềm vui yêu đời, yêu lao động, yêu cuộc sống tự do, tiếng hát của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.



2. Cảnh đánh cá



- Khung cảnh: vầng trăng, mây cao, biển bằng…

Các loại cá: các nhụ, cá chim, cá dé…

* Khung cảnh biển đêm: thoáng đãng lấp lánh, ánh sáng đẹp, vẻ đẹp lãng mạn kỳ ảo của biển khơi.

- Nhà thơ đã tưởng tượng ngược lại, bóng sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm, một sự sáng tạo nghệ thuật - biển đẹp màu sắc lấp lánh: hồng trắng, vàng chéo, vảy bạc, đuôi vàng loé rạng đông.

- Thuyền lái gió… dò bụng biển…dàn đan thế trận.

- Gõ thuyền có nhịp trăng cao, kéo xoăn tay… chùm cá nặng.

Cảnh lao động với khí thế sôi nổi, hào hứng, khẩn trương, hăng say.

Tinh thần sảng khoái ung dung, lạc qua, yêu biển, yêu lao động.

- Âm hưởng của tiếng hát là âm hưởng chủ đạo, niều yêu say mê cuộc sống, yêu biển, yêu quê hương, yêu lao động.

- Nhịp điệu khoẻ, đa dạng, cách gieo vần biến hoá, sự tưởng tượng phóng phú, bút pháp lãng mạn.



3. Cảnh trở về (khổ cuối)



- Câu hát căng buồm

- Đoàn thuyền chạy đua

- Mặt trời đội biển

- Mắt cá huy hoàng…

Cảnh kỳ vĩ, hào hùng, khắc hoạ đậm nét vẻ đẹp khoẻ mạnh và thành quả lao động của người dân miền biển.

- Ra đi hoàng hôn, vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi.

- Sau một đêm lao động miệt mài, họ trở về trong cảnh bình minh, mặt trời bừng sáng nhô màu mới, hình ảnh mặt trời cuối bài thơ là hình ảnh mặt trời rực rỡ với muôn triệu mặt trời nhỏ lấp lánh trên thuyền: Một cảnh tượng huy hoàng của thiên nhiên và lao động.



III. Tổng kết.



1. Về nghệ thuật




Nghệ thuật: bài thơ được viết trong không khí phơi phới, phấn khởi của những con người lao động với bút pháp lãng mạn, khí thế tưng bừng của cuộc sống mới tạo cho bài thơ một vẻ đẹp hoành tráng mơ mộng.



2. Về nội dung



Ca ngợi sự giàu đẹp của biển, sự giàu đẹp trong tâm hồn của những người lao động mới, phơi phới tin yêu cuộc sống mới, ngày đem chạy đua với thời gian để cống hiến, để xây dựng, họ là những con người đáng yêu.
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top