ncongly

New Member

Download miễn phí Toán học dưới cái nhìn triết học





“Con người không thểtạo ra thếgiới tựnhiên, nhưng có thểnhận
thức được thếgiới tựnhiên và cải tạo được thếgiới tựnhiên”. Tất cả
các đối tượng toán học và tính chất bất biến trong toán học đều có quy
luật riêng của nó. Tuy nhiên con người có khảnăng nhận thức được, tác
động vào nó và khám phá ra nó sớm hơn đểnó trởlại phục vụcho con
người. Vẫn có thểtrong quá trình phát triển của toán học, con người
nhận thức sai nhưng từnhững nhận thức sai đó đôi khi lại mở đường cho
toán học phát triển. Những nhận thức sai đó sẽthúc đNy con người tìm ra
chân lý. Việc nhận thức vềtoán học cũng đã làm cho con người hiểu rõ
hơn vềthếgiới vật chất, nâng cao thếgiới quan và phương pháp luận
biện chứng của con người.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

TOÁN HỌC DƯỚI CÁI NHÌN TRIẾT HỌC
Nguyễn Cung Hoàng Nam
“Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phải ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Các đối tượng toán
học đều có đặc điểm như vậy. Thế giới toán học như thể một thế giới vật
chất thu nhỏ mà trong có các đối tượng toán học như thể vật chất, còn
các tính chất trong toán học như thể các hiện tượng. Nếu triết học nghiên
cứu về sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng thì toán học
nghiên cứu về những đối tượng và các tính chất bất biến của nó. Điều đó
cho thấy rằng toán học và triết học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cụ
thể như sau:
1) Toán học là một thế giới vật chất
Theo chủ nghĩa duy vật, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức. Điều này cũng giống như trong toán học, tất cả các
đối tượng toán học đều có trước và tồn tại khách quan, không phụ thuộc
vào cảm giác con người. Tất cả các đối tượng toán học đều có trước
những người khám phá ra nó. Chẳng hạn, hàm số-đồ thị, tập số, phương
trình, hình lập phương…. tất cả đã vốn đều có trong thực tiễn.. Thật vậy,
ta có:
+ Hàm số – đồ thị: tất cả mối liên hệ trong thực tiễn có liên quan tương
ứng một một đều là mối liên hệ của “hàm” (nói theo nghĩa hẹp là “hàm
số”). Ví dụ: mỗi căn nhà thì có một địa chỉ, mỗi người có một số chứng
minh nhân dân, mỗi đường truyền internet có một địa chỉ IP… Sự biến
đổi tăng giảm của giá vàng, sự thay đổi về nhiệt độ, thời tiết, … đó là đồ
thị
+ Tập số: một lớp học gồm 40 học sinh, một hộp bút có 12 cậy bút, …
những con số 40, 12 đó nếu con người không khám phá thì tự bản thân
nó vẫn là 40 và 12, chỉ có một điều nó chưa được gán cái tên là “40-
12”… Như vậy, trước khi con người tìm ra số, thì bản thân nó vẫn tồn
tại một cách khách quan… Con người khám phá, nói chính xác hơn là
khám phá lại
+ Phương trình: nó vẫn có sẵn trong thực tiễn, đó là tữ những tình
huống, những bài toán cần tìm một đối tượng nào đó ….
+ Hình lập phương: trong thực tiễn hình lập phương, cho dù con người
có khám phá ra nó hay không thì nó vẫn tồn tại và mãi mãi là hình lập
phương
Con người đã từ nghiên cứu thực tiễn, khái quát hóa nên các đối
tượng ấy…Chỉ khác, là vốn ban đầu, các đối tượng đó chưa được gọi tên
là “hàm số – đồ thị”, “tập số”, “phương trình”, “hình lập phương”… Tất
cả những đối tượng đó đúng như triết học đã nói “tồn tại khách quan,
độc lập với ý thức của con người, không ai sáng tạo ra và không ai có
thể tiêu diệt được”
Trong triết học, phương pháp luận biện chứng là xem xét sự vật,
hiện tượng trong sự ràng buộc lẫn nhau giữa chúng, trong sự vận động
và phát triển không ngừng của chúng. Tất cả các chứng minh toán học
đều là phương pháp luận biện chứng. Khi chứng minh, đương nhiên các
sự vật (ở đây là các đối tượng toán học) được nhà toán học dựa trên sự
ràng buộc giữa chúng, và trong sự vận động không ngừng. Ví dụ: khi
chứng minh một bất đẳng thức thì các số a,b, c trong chứng minh đó
hay là cùng thuộc R, hay là cùng số dương … sự ràng buộc đó cũng có
thể là những điều kiện kèm theo trong bất đẳng thức. Liên quan đến việc
chứng minh tính chất nghiệm phương trình bậc ba là sự vận động (phát
triển) cho một tập hợp số mới đó là tập số phức
Tất cả các đối tượng trong toán học đều có mối quan hệ biện
chứng. Ví dụ:
+ Phép toán “1+1=2”: trong phép cộng nói trên thì 3 số 1,1,2 có quan hệ
biện chứng với nhau. Nói rộng hơn tất cả các công thức trong toán học
đều thể hiện mối quan hệ biện chứng
+ “Hai góc đối đỉnh thì bằng nhau”: mối quan hệ biện chứng giữa 2 góc
đối đỉnh. Tất cả các định lý, tính chất đều thể hiện mối quan hệ biện
chứng trong đó
+ Biến số và hàm số
+ Những mệnh đề P=>, P Q
Trong triết học “thế giới vật chất có trước, phép biện chứng phản
ánh nó là cái có sau. Thế giới vật chất luôn vận động và phát triển theo
những quy luật khách quan.”. Đúng như vậy, thế giới toán học (bao gồm
tất cả đối tượng và tính chất các đối tượng) là cái có trước còn tất cả các
chứng minh toán học là cái có sau. Con người có khả nằng nhận thức
được các quy luật của các đối tượng đó. Sự nhận thức này là từ phương
pháp luận biện chứng đã nói ở trên. Như vậy, toán học và phương pháp
luận biện chứng cũng không thể tách rời nhau, mà chúng phải gắn bó
chặt chẽ với nhau
2) Thế giới vật chất tồn tại khách quan
“Ý thức con người của con người (thông qua hoạt động) tuy có
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của giới tự nhiên, song sự tồn tại
và phát triển của giới tự nhiên vẫn tuân theo những quy luật riêng của
chúng, con người không thể quyết định hay thay đổi những quy luật đó
theo ý muốn chủ quan của mình”. Trong toán học, từ những hoạt động
toán học (khám phá các đối tượng, chứng minh các tính chất toán học)
đã làm cho “thế giới toán học” phát triển ngày càng nâng cao, nhưng
toán học vẫn có sự phát triển theo quy luật chung khách quan không phụ
thuộc vào con người, con người không thể thay đổi được các quy luật
đó. Nếu như “2 đường thẳng phân biệt cùng song song với một đường
thẳng thứ 3 thì chúng song song với nhau” thì mãi mãi là như vậy. Đó là
một chân lý, dù muốn dù không, dù có khám phá ra hay chưa khám phá
ra con người cũng không thể thay đổi được. Ngay cả việc Lobasepxki
thay đổi các tiền đề của hình học Ơclit để tạo ra hình học phi Ơclit thì sự
hình thành hình học mới cũng rất tự nhiên theo quy luật khách quan. Xét
trên hệ tiền đề mới thì những quy luật mới trong hình học phi Ơclit ví dụ
như “tổng 3 góc trong tam giác không bằng 180°” cũng là một quy luật
tự thân có sẵn. Ở đây ta không được cho rằng hình học phi Ơclit phủ
nhận hình học Ơclit bởi vì 2 hình học là xây dựng trên những tiền đề
khác nhau. Tất cả quy luật đó không do một lực lượng thần bí nào tạo ra,
nó là những quy luật tự nhiên.
“Con người không thể tạo ra thế giới tự nhiên, nhưng có thể nhận
thức được thế giới tự nhiên và cải tạo được thế giới tự nhiên”. Tất cả
các đối tượng toán học và tính chất bất biến trong toán học đều có quy
luật riêng của nó. Tuy nhiên con người có khả năng nhận thức được, tác
động vào nó và khám phá ra nó sớm hơn để nó trở lại phục vụ cho con
người. Vẫn có thể trong quá trình phát triển của toán học, con người
nhận thức sai nhưng từ những nhận thức sai đó đôi khi lại mở đường cho
toán học phát triển. N hững nhận thức sai đó sẽ thúc đNy con người tìm ra
chân lý. Việc nhận thức về toán học cũng đã làm cho con người hiểu rõ
hơn về thế giới vật chất, nâng cao thế giới quan và phương pháp luận
biện chứng củ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Báo cáo thực tập tại Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tin học TP. Hồ Chí Minh Luận văn Kinh tế 0
D Tài liệu học tập môn Toán lớp 11 (Học kỳ 1) Luận văn Sư phạm 0
D Phát triển năng lực mô hình hóa toán học cho học sinh trong dạy học đại số lớp 7 Luận văn Sư phạm 0
D ĐỒ ÁN MÔN HỌC KẾT CẤU VÀ TÍNH TOÁN Ô TÔ - THIẾT KẾ HỆ THỐNG PHANH XE TẢI Khoa học kỹ thuật 0
D Sử dụng sơ đồ tư duy trong các tiết ôn tập môn toán 12 nhằm phát huy tính sáng tạo và nâng cao khả năng ghi nhớ của học sinh Luận văn Sư phạm 0
D Tổ chức một số dự án học tập gắn với thực tiễn trong dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông Luận văn Sư phạm 0
D Sử dụng nghiên cứu bài học để phát triển năng lực giao tiếp toán học cho học sinh trung học cơ sở Luận văn Sư phạm 0
D Dạy học giải bài toán bằng cách lập phương trình, hệ phương trình ở trường trung học cơ sở theo phương pháp mô hình hóa Luận văn Sư phạm 0
D Phân tích và sửa chữa các sai lầm của học sinh THPT khi giải toán Luận văn Sư phạm 0
D Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kế toán tại trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp Luận văn Sư phạm 1

Các chủ đề có liên quan khác

Top