Covell

New Member

Download miễn phí Tổng luận Nền kinh tế sinh học thế giới tới năm 2030





Sự định hình nền KTSH tương lai sẽ phụ thuộc vào những đột phá trong nghiên cứu
cơ bản và ứng dụng của các khoa học sinh học; các cơ hội kinh doanh và các đổi mới
trong quy chế và các mô hình kinh doanh. Tuy nhiên, hình hài của nền KTSH năm
2030 cũng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến địa điểm, quy mô
và các dạng thị trường cho các sản phẩm CNSH, bao gồm thực phẩm, thức ăn chăn
nuôi, sợi, nhiên liệu, chất dẻo, hoá chất tinh khiết và dược phẩm. Các yếu tố bên ngoài
này gồm cả dân số, thu nhập, giáo dục, tiêu thụ năng lượng, khả năng tồn tại và giá
thành của các nguồn tài nguyên chủ yếu như năng lượng, thực phẩm, nước, tiếp cận y
tế và cả các công nghệ hỗ trợ và cạnh tranh



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

thống trị trong lĩnh vực tạo giống cây trồng ở các nước phát triển, đặc biệt
là đối với thị trường lớn về cây trồng.
Một cuộc điều tra khảo sát tại 20 DBF hoạt động trong lĩnh vực CNSH ở châu Âu
và Bắc Mỹ đã cho thấy những khó khăn mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh
vực này gặp phải. Phần lớn các DBF được điều tra có năng lực phát triển các giống
cây trồng GM, nhưng họ ít có khả năng tự đưa các giống cây trồng này ra thị trường.
Phần lớn thiếu ít nhất 2 hay 3 đầu vào chính: 1) tiền, đặc biệt là thanh toán chi phí
quản lý và chi phí NC&PT; 2) một cơ cấu marketing với những mối liên hệ với khách
hàng và hệ thống phân phối để liên kết doanh nghiệp với khách hàng của mình, 3) một
nguồn giống sản lượng cao tinh tuý, đặc biệt quan trọng đối với các nước có một hệ
thống các giống cây trồng dựa trên sáng chế.
Từ các cuộc phỏng vấn trong điều tra trên cho thấy rằng mô hình kinh doanh phổ
biến nhất đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa có hoạt động nghiên cứu cường độ cao
trong sản xuất sơ cấp là cấp li-xăng công nghệ cho các doanh nghiệp lớn, hay bị mua
lại bởi một doanh nghiệp lớn. Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực y tế.
Nhưng ngược lại, các công ty hoạt động trong lĩnh vực phát triển cây trồng thực phẩm
lại ít có cơ hội bán tri thức của họ hơn, do thị trường độc quyền nhóm (oligopolistic
market) với rất ít người bán.
Các điều kiện công nghệ và thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho một số dạng
doanh nghiệp lớn được hình thành từ hợp nhất các doanh nghiệp nhỏ theo mô hình dọc
trong lĩnh vực CNSH công nghiệp. Thị trường cho các sản phẩm CNSH như các
enzyme có sự tham gia của hàng nghìn doanh nghiệp trên toàn thế giới. Tuy nhiên,
việc sản xuất enzyme lại rất tập trung. Trong 4 doanh nghiệp hàng đầu thuộc lĩnh vực
này thì có tới 3 doanh nghiệp ở Đan Mạch, chiếm hơn 80% doanh số bán hàng trên
toàn thế giới, đó là: Novozymes, Danisco, Chr. Hansen và DSM. Bên cạnh đó có ít
nhất 1000 doanh nghiệp sử dụng các quy trình biến đổi sinh học để sản xuất các chất
29
hoá học. Ở một số phân khúc thị trường này, lợi nhuận có thể thu được của các doanh
nghiệp hoá chất phụ thuộc vào trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của họ. Điều
này tạo rào cản cho các doanh nghiệp CNSH nhỏ thiếu sự thẩm định công nghệ hay
thiếu vốn để xây dựng các nhà máy sản xuất quy mô lớn.
Cấu trúc kinh doanh cơ bản của CNSH y tế vẫn không thay đổi kể từ cuối những
năm 70 của thế kỷ trước. Việc thương mại hoá các dược phẩm chủ yếu được thực hiện
bởi các doanh nghiệp lớn vốn được hình thành từ hợp nhất theo mô hình dọc. Các
DBF cung cấp các dịch vụ và triển khai các liệu pháp. Chi phí vốn thấp đã giúp các
DBF sống sót. Mặc dù nhiều DBF trong y tế bị thôn tính bởi các doanh nghiệp lớn,
nhưng sự ra đời nhanh chóng của nhiều DBF mới trong lĩnh vực này đã giúp giảm sự
tập trung vào một số doanh nghiệp lớn. Chi tiêu cho NC&PT của tốp 10 doanh nghiệp
lớn nhất trong lĩnh vực CNSH dược phẩm và y tế chiếm tỷ lệ ổn định ở mức 64% từ
năm 2002 đến 2006.
Tóm lại, các mô hình kinh doanh consortium, hợp tác và nguồn mở đều giúp giảm
chi phí thông qua chia sẻ tri thức được cấp sáng chế. Các DBF có thể tham gia vào các
mô hình kinh doanh hợp tác, mặc dù trong một số trường hợp điều này có thể mâu
thuẫn với các mô hình kinh doanh dựa trên cấp quyền quyền sở hữu tri trức cho các
doanh nghiệp lớn được hợp nhất theo mô hình dọc hay hợp nhất hệ thống (system
integrator). Mô hình hợp nhất hệ thống thực hiện các giai đoạn nghiên cứu và thương
mại hoá. Trong lĩnh vực y tế, loại mô hình kinh doanh này có thể bao gồm cả thương
mại hoá sản phẩm và cung cấp các dịch vụ y tế. Mô hình kinh doanh hợp nhất kết hợp
phát triển sản xuất và dịch vụ là một mô hình mới cho lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ. Mô
hình này có thể là chính yếu cho phát triển nhanh dược phẩm phục hồi, dựa trên nhu
cầu kết hợp các sản phẩm được cá nhân hoá và thực hành lâm sàng. Y học dự báo và
phòng ngừa cũng có thể cần tới mô hình hợp nhất bao gồm cung cấp dịch vụ cho bệnh
nhân và cung cấp số liệu về các kết quả điều trị cho các doanh nghiệp đang phát triển
các liệu pháp.
Ngoài mô hình hợp nhất theo chiều dọc, mô hình hợp nhất theo chiều ngang là mô
hình mở liên kết hai hay nhiều các lĩnh vực ứng dụng, như CNSH sản xuất sơ cấp với
CNSH công nghiệp. Mô hình kinh doanh này có thể đối mặt với sự cạnh tranh mạnh
mẽ từ việc sử dụng các tiêu chuẩn hay sinh học tổng hợp. Ví dụ, đối với trường hợp
đầu, các tiêu chuẩn về các đặc điểm chế biến của các giống cây trồng sinh khối có thể
thay thế cho nhu cầu tích hợp, còn trong trường hợp thứ hai, sinh học tổng hợp có thể
được sử dụng để phát triển các vi sinh vật có khả năng sản sinh ra các hoá chất mà
không cần tới nguyên liệu sinh khối.
30
III. DỰ BÁO NỀN KINH TẾ SINH HỌC THẾ GIỚI ĐẾN NĂM 2015 VÀ 2030
1. Nền kinh tế sinh học thế giới tới năm 2015
Dựa trên những xu hướng trước đây, dữ liệu thử nghiệm trong lĩnh vực GM và các
báo cáo của các công ty, các nhà nghiên cứu đoán tới năm 2015 xấp xỉ một nửa sản
lượng toàn cầu của các cây lương thực chính, cây nguyên liệu và nhiên liệu công
nghiệp sẽ có nguồn gốc từ các giống thực vật được phát triển bằng cách sử dụng một
hay nhiều dạng CNSH. Những CNSH này bao gồm không chỉ GM mà còn cả di
truyền nội gen (intragenics), sắp xếp gen (gene shufling) và lựa chọn được hỗ trợ bằng
chất đánh dấu. Các CNSH, ngoài GM, sẽ được sử dụng để cải thiện chăn nuôi gia súc
lấy sữa và thịt. GM sẽ ngày càng được sử dụng để phát triển các giống động vật có thể
sản xuất các loại dược liệu hay các chất khác ở sữa có giá trị. Trong lĩnh vực y tế, tri
thức CNSH sẽ giữ một vai trò trong việc phát triển các dạng liệu pháp. Việc chia tách
giữa khu vực CNSH với khu vực dược phẩm sẽ không còn có nghĩa nữa. Dược di
truyền sẽ phát triển nhanh chóng, tác động tới việc tạo ra các thử nghiệm lâm sàng và
các thủ tục kê đơn. Giá trị của hoá sinh (ngoài dược phẩm) có thể tăng từ chỗ chiếm
1,8% tổng sản lượng hoá chất trong năm 2005 lên đến 12-20% vào năm 2015. Sản
lượng nhiên liệu sinh học cũng dịch chuyển phần nào từ ethanol sinh học dựa trên tinh
bột sang các nhiên liệu sinh học mật độ năng lượng cao được sản xuất từ rỉ đường
hay ethanol sinh học từ nguyên liệu như cỏ và gỗ.
1.1.Các công nghệ nền tảng
Các công nghệ tập trung vào gen, ví dụ như các công nghệ GM, sẽ tiếp tục giữ vai
trò chính trong các ứng dụng tới năm 2015. Các công nghệ có tác động lớn nhất trong
tương lai gần là RNAi, sắp xếp gen, kỹ thuật đường trao đổi chất, tổng hợp ADN và có
thể là tổng hợp sinh (synbio). Mặc dù các kỹ thuật được sử dụng rộng rãi ngày nay,
như GM, sẽ tiếp tục được sử dụng nhiều hơn, các kỹ thuật tiên tiến sẽ ngày càng trở
nên quan trọng. Ví dụ, các liệu pháp dựa trên RNAi h...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top