Bricriu

New Member
Đề tài Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Chân Á và một số giải pháp đổi với Việt Nam

Download miễn phí Đề tài Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Chân Á và một số giải pháp đổi với Việt Nam





Trước tiên chúng ta cần nhận định khái quát khả năng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ của khu vực đối với thị trường tiền tệ và nền kinh tế nước ta. Nếu xét trên phương diện trực tiếp thì cho tới thời điểm này, khủng hoảng tiền tệ ở một số nước trong khu vực chưa ảnh hưởng lớn tới thị trường tiền tệ Việt Nam. Đó là vì tuy nước ta ra nhập ASEAN hồi tháng 7/1995 nhưng ta chưa thực sự có quan hệ gắn bó về kinh tế với các nước trong khối cũng như chưa chịu ảnh hưởng nhiều của sự liên kết tiền tệ trong khu vực. Đồng Bath và các đồng tiền của các nước khác trong khối ASEAN không giữ vai trò trực tiếp trong quan hệ tài chính mậu dịch và thanh toán với ta. Mặt khác, đồng tiền nước ta chưa chuyển đổi, thị trường của ta chưa phát triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường Tài chính khu vực, chế độ quản lý ngoại hối vẫn còn được kiểm soát khá chặt chẽ( như hạn chế đối với các Ngân hàng nước ngoài trong hoạt động cho vay bằng Việt Nam đồng, mua bán trái phiếu kho bạc, tự do chuyển nhượng hay mua bán ngoại tệ với khối lượng lớn, nên không thể có đầu cơ lũng đoạn, phá giá đồng tiền từ bên ngoài được. Đó là chưa kể đến yếu tố thị trường trường chứng khoán ở nước ta chưa thực sự ra đời, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là FDI và ODA.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ế Thái Lan. Một sự tăng cũng ồ ạt trong khi sử dụng hết dẫn đến một sự giảm giá của khu vực bất động sản. Điều này sẽ dẫnđến việc khủng hoảng ở khu vực bất động sản và ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng trả nợ của các Doanh nghiệp sau đó ảnh hưởng hàng loạt đến các ngân hàng và Công ty tài chính vào tình trạng không có khả năng thanh toán.
Như vậy nguyên nhân đầu tiên cần khẳng định là do sự đầu tư mất cân đối trong nền kinh tế của các nước này, đặc biệt là Thái Lan.
Khủng hoảng nợ đồng USD.
Trong một thời gian dài, các nước Đông Nam á đã gắn tỷ giá hồi đoái của mình với đồng USSD. Các Doanh nghiệp, ngân hàng trong nước và cả nhà đầu tư nước ngoài dần dà tin tưởng vào sự ổn định của động nội tệ đối với USD. Thêm vào đó, trong mấy năm qua, các nước này đã tự do hoá và mở cửa thị trường vốn của mình, tào điều kiện để các Doanh nghiệp và ngân hàng trong nước lần giới đầu tư tài chính thế giới cho vay đồng USD lãi suất thấp, cho vay lại bằng đồng nội tệ suất cao ăn chênh lệch lãi suất mà không phải lo sợ rủi ro phá giá đồng nội tệ.
Như vậy dự trữ ngoại tệ đã không đủ để trả nợ nước ngoài,. Vì dòng chảy USD vào nhiều như vậy (thể hiện bằng việc vay ngân hàng nước ngoài0 nên dù 4 nước trên gặp thiếu hụt lớn tỏng cán cân thanh toán đương kỳ 9từ 4% đến 8% GDP), đồng tiền của nước họ vẫn ổn định so với USD. Trong năm 1996, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của các nước này bắt đầu chậm lại, nhiều ngân hàng và Công ty tài chính bắt đầu bị khó khăn vì cho vay quá nhiều vào khu vực địa ốc. Các nhà đầu tư tài chính quốc tế vì cậy bắt đầu đặt dầu hỏi về khả năng có thể tiếp tục duy trì lãi suất cao để ổn định tỷ giá hồi đoái của nước này. Lãi suất cao sẽ thu hút luồng tài chính từ nước ngoài vào nhiều cung về ngoài tệ )USD) nhiều và như vậy vẫn có khả năng giữ ổn định được tỷ giá.
Qua sự phân tích ở trên đây thì có thể thấy được việc vay nợ nước ngoài có thể giúp các nước tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tuy nhiên nó cũng có thể “bóp chết” các nước này nếu nguồn vay đó không được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Một bài học đặc giá cho việc quản lý nợ nước ngoài đối với khu vực tư nhân, khu vực mà Chính phủ không kiểm soát được hay không có khả năng kiểm soat.
Sự hoạt động yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính.
Được sự thông thoáng hơn trong việc vay vốn từ nước ngoài từ phía Chính phủ. Các ngân hàng đã huy động vốn USD từ các ngân hàng nước ngoài với lãi suất thấp.
Phần lớn số cho vay này nhằm tài trợ các dự án bất động sản (cao ốc văn phòng, chung cư và nhà ở, khách sạn...), các chương trình đầu tư lớn vào các khu vực hiện trên thế giới đang thừa sức cũng như hoá dầu, xe ôtô, sắt thép...hay tài trợ các giới đầu tư tài chính trong nước mua cổ phiếu.
Khi thị trường địa ốc suy giảm và thị trường chính khoán bị phá giá mạnh và các công trình công nghiệp không sinh lợi (vì bị cạnh tranh trên thị trường thế giới) thì các bên nợ bị thua lỗ, phá sản; kéo đến làm cho các ngân hàng và công ty tài chính gặp khủng hoảng. Hiện nay, số dư nợ quá hạn (con nợ không trả lãi từ 6 tháng trở lên) đạt mức 23% của Malaysia, 205 GDP ở Thái Lan, 115 ở Indonesia và 8% ở Philippine. Để có thể thấy được mức độ của các con số đòi/GDP là 11% và Nhật đã phải trải qua 7 năm tăng trưởng chậm mà vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng ngân hàng.
Cùng với sai lầm trong việc cho vay, một nhân tố quan trọng ở đây nữa là tệ nạn tham nhũng trong hệ thống ngân hàng. Các tập đoàn lớn đã thao túng nhiều cán bộ ngân hàng, làm cho số món vay không được đánh giá càng và chính xác ngày một tăng.
Như vậy một nguyên nhân nữa đã phân tích là sự yếu kém của hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính. Sự yếu kém thể hiện trong phương tứch hay nói cách khác là phương hướng và mục tiêu kinh doanh đã không được xác định rõ ràng. Họ chỉ nhìn thấy lợi nhuân trước mắt mà không tính đến tương lai phát triển của ngân hàng và sự đóng góp của ngân hàng vào việc phát triển kinh tế. Một tỷ kệ nợ khó đòi rất cao cúng chưa thể nói hết được ý nghĩa trong vấn đề này. Hoạt động của ngân hàng phải theo sự chỉ đạo và mục đích phát triển của nền kinh tế đất nước.
Sai lầm trong chiến lược xuất khẩu
Trong suốt một thập kỷ từ năm 1985 - 1995, đồng USD đã mất giá một nửa so với các đồng tiền mạnh khác như DM của Đức và Yên Nhật. Do việc gắn chặt tỷ giá, hối đoái của mình so với hàng hoá thị trường Châu á và Nhật. Từ năm 1995 trở lại đây USD đã tăng gaias khoảng 20% so với DM và Yên, làm giảm bớt tính cạnh tranh cảu hàng hoá Đông Nam á. đặc biệt là quan trọng hơn, năm 1994 Trung quốc đã phá giái đồng nhân dân tệ khoảng 30% làm cho các mặt hàng chế biến của Trung Quốc đã hấp dẫn trên thị trường thế giới. Lấn át thị phần của các nước Đông Nam á. Thêm vào đó, giá kinh doanh và sinh hoạt ở thủ đô các nước trong khu vực trong mấy năm qua đã trở thành đắt nhất thế giới, làm cho các nước này mất đi lợi thế so sánh giá cả. Tổng kim gạch xuất khẩu của các nước Asean sau khi tăng trưởng khoản 20% mỗi năm trong hai năm 1994 - 1995 đã giảm mạnh còn 8% trong năm 1996.
Đồng thời với việc giảm xuất khẩu là việc tăng nhập khẩu, các nước này đã theo đuổi chính sách theo hướng xuất khẩu một cách cứng nhắc và tập trung quá cao vào một vài mặt hàng theo kiểu “độc canh” đã làm mất dầu khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế và công nghệ chậm được đổi mới làm cho tốc độ xuất khẩu giảm dẫn và nhập khẩy tăng lên, kết quả thâm hụt tài khoản vãng lai tăng cao (thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 của Thái Lan là 8,5% so với GDP, Philippine là 13%. Để bù đắp thiếu hụt ngoại tệ phải bổ xung bằng vay nợ, mà chủ yếu là vay nợ ngắn hạn nước ngoài với những điều kiện không nhuận lợi và lãi suất cao.
Việc chính sách tỷ giá gẵn chặt với đồng USD, cơ chế tỷ giá cố định duy trì quá lâu như phân tích ở trên là có lợi cho xuất khẩu khi đồng USD giảm giá và không lợi khi USD tăng giá. Trong suốt 13 năm qua, tỷ gái đồng Baht Thai Lan so với đồng USD luôn ở mức 24 - 25 Baht/USD. Chính sách này trong thời gian gần đây đã vừa kìm hãm xuất khẩu, vừa kích thích tiêu dùng quá mức. Hậu quả là chính sách hướng về xuất khẩu không những không thực hiện được, còn xu hướng đầu tư nước ngoài để thay thế hàng nhập khẩu lại bộc lộ khá rõ nét. Tình trạnh này càng làm cho nhập khẩu bị đẩy lên, cán cân thương mại thêm thâm hụt và căng thẳng hơn trước.
Như vậy nguyên nhân được nêu ra ở đây là các nước này đã đánh mất đi lợi thế của hàng hoá xuất khẩu do nguồn tài nguyên phong phú cộng với giá nhân công rẻ hơn so với các nước khác trên thế giới.
2. ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ đến nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực
Tiêu cực
Sự phá giá của đồng bath và các đồng tiền khác của các nước Đông nam á gây ra hậu quả rất nghiêm trọng, lâu dài và tác động xấu đến mọi hoạt động c
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top