cobe_doihon9150

New Member

Download Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội miễn phí





Trong BLHS Việt Nam, các điều luật tại phần các tội phạm thường được thiết kế thành nhiều khoản với những khung hình phạt tương ứng cho những trường hợp phạm tội thuộc từng khoản đó, có một số ít điều luật chỉ có một khung hình phạt. Vậy, mức hình phạt mà “điều luật” quy định theo Điều 74 của BLHS được hiểu như thế nào? Về vấn đề này, theo chúng tôi, cần phân chia thành hai trường hợp sau:
Đối với trường hợp phạm một tội: mỗi một tội phạm cụ thể chỉ thuộc một khoản nhất định của điều luật với khung hình phạt tương ứng. Mặt khác, BLHS đã quy định những nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội theo hướng giảm nhẹ hình phạt so với người đã thành niên phạm tội trong cùng một khung hình phạt. Do đó, đối với những điều luật có nhiều khung hình phạt, “điều luật” ở đây phải được hiểu cụ thể là điều khoản được áp dụng.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Cần sửa đổi, bổ sung quy định về Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS), người chưa thành niên (NCTN) phạm tội là những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm được quy định trong BLHS. NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ còn nhiều hạn chế. Họ dễ bị kích động, dụ dỗ vào việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, Nhà nước ta có đường lối xử lý trách nhiệm hình sự đối với NCTN nhẹ hơn người đã thành niên, thể hiện qua các quy định của BLHS, tập trung chủ yếu ở Chương X của Bộ luật này. Khi quyết định hình phạt đối với NCTN phạm nhiều tội (tổng hợp hình phạt đối với NCTN phạm nhiều tội) phải tuân thủ những quy định chung về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đồng thời phải tuân thủ những quy định riêng đối với NCTN phạm tội, đặc biệt là quy định về tổng hợp hình phạt theo Điều 75 của BLHS.
1. Quyết định hình phạt trong trường hợp có tội được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, có tội được thực hiện khi người đó đã thành niên
Căn cứ vào tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên hay đã thành niên, nhà làm luật đã quy định tổng hợp hình phạt theo hai trường hợp tại Điều 75 của BLHS: nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này (khoản 1); nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên, hình phạt chung được áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội (khoản 2).
Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp thứ hai như đối với người đã thành niên, nên tác giả chỉ phân tích trường hợp tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi (trường hợp thứ nhất).
Để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này, trước hết Toà án cũng phải quyết định hình phạt đối với từng tội. Nếu các tội bị xét xử trong cùng một lần, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó căn cứ vào Điều 50 và Điều 75 của BLHS để tổng hợp hình phạt. Việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án trong trường hợp có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi được căn cứ vào Điều 51 và khoản 1, Điều 75 của BLHS. Cụ thể, người đang có bản án đã có hiệu lực pháp luật về tội được thực hiện sau khi người này đã thành niên, mà lại bị xét xử về tội năng hơn được thực hiện trong khi chưa thành niên, thì căn cứ vào khoản 1, Điều 51 và khoản 1, Điều 75 của BLHS để tổng hợp hình phạt; người đang có bản án đã có hiệu lực pháp luật về tội đã thực hiện khi người này chưa thành niên mà lại phạm tội mới nhẹ hơn khi đã thành niên, thì căn cứ vào khoản 2, Điều 51 và khoản 1, Điều 75 của BLHS để tổng hợp hình phạt.
Ngoài ra, việc tổng hợp hình phạt còn phải căn cứ vào Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn. Sau khi đã quyết định hình phạt đối với từng tội và xác định tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, Toà án tiến hành việc tổng hợp hình phạt để xác định hình phạt chung. Trong trường hợp hình phạt đối với các tội đều là hình phạt tù hay có hình phạt tù, có hình phạt cải tạo không giam giữ thì chuyển hình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù theo tỷ lệ 3:1, sau đó tổng hợp các hình phạt theo quy định tại khoản 1, Điều 75 và Điều 74 của BLHS như sau:
- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi mà điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hay tử hình, thì mức hình phạt tù chung cao nhất không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn, thì mức hình phạt chung cao nhất không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi mà điều luật quy định hình phạt tù chung thân hay tử hình, thì mức hình phạt tù chung cao nhất không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn, thì mức hình phạt tù chung cao nhất không vượt quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định.
Trong BLHS Việt Nam, các điều luật tại phần các tội phạm thường được thiết kế thành nhiều khoản với những khung hình phạt tương ứng cho những trường hợp phạm tội thuộc từng khoản đó, có một số ít điều luật chỉ có một khung hình phạt. Vậy, mức hình phạt mà “điều luật” quy định theo Điều 74 của BLHS được hiểu như thế nào? Về vấn đề này, theo chúng tôi, cần phân chia thành hai trường hợp sau:
Đối với trường hợp phạm một tội: mỗi một tội phạm cụ thể chỉ thuộc một khoản nhất định của điều luật với khung hình phạt tương ứng. Mặt khác, BLHS đã quy định những nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội theo hướng giảm nhẹ hình phạt so với người đã thành niên phạm tội trong cùng một khung hình phạt. Do đó, đối với những điều luật có nhiều khung hình phạt, “điều luật” ở đây phải được hiểu cụ thể là điều khoản được áp dụng.
Đối với trường hợp phạm nhiều tội: người phạm tội bị xét xử và tuyên hình phạt đối với từng tội, nên có nhiều điều luật được áp dụng. Vậy phải căn cứ vào điều luật nào để xác định mức hình phạt tù tối đa được áp dụng cho các tội? Trường hợp này, chúng tui cho rằng, phải căn cứ vào điều luật được áp dụng đối với tội nặng nhất trong số các tội bị xét xử, bởi lẽ mức hình phạt tối đa của các tội không thể nhẹ hơn mức hình phạt tối đa của tội nặng nhất trong số các tội đó. Hiểu như như vậy mới có thể áp dụng được hình phạt công bằng, hợp lý, góp phần đạt được mục đích của hình phạt.
Ví dụ: Một người 17 tuổi 10 tháng phạm Tội cướp tài sản theo khoản 3, Điều 133 của BLHS. Sau đó, họ lại phạm Tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 2, Điều 135 của BLHS khi 18 tuổi 5 tháng. Người phạm tội bị truy tố, xét xử cùng một lần về hai tội này và bị xử phạt 12 năm tù về Tội cướp tài sản; 07 năm tù về Tội cưỡng đoạt tài sản. Tội cướp tài sản có loại hình phạt nặng nhất là tử hình (khoản 4, Điều 133 của BLHS); Tội cưỡng đoạt tài sản có loại hình phạt nặng nhất là tù có thời hạn đến 20 năm (khoản 4, Điều 135 của BLHS). Do đó, theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Tội cướp tài sản nặng hơn Tội cưỡng đoạt tài sản. Theo quy định tại khoản 1, Điều 74 và khoản 1, Điều 75 của BLHS, mức hình phạt tù tổng hợp của hai tội bị giới hạn không vượt quá 3/4 mức hình phạt tù cao nhất của điều luật được áp dụng. Trong trường hợp này, mức hình phạt...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top