daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối

Sau Đổi Mới, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ thông qua cơ chế mở
cửa thị trường, tạo điều kiện cho hàng loạt các doanh nghiệp xuất khẩu được thành lập và thu
được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên, một số lượng lớn các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đã
phảichịu những thiệt hại không đáng có do bị áp mức thuế chống bán phá giá không phù hợp,
mà điển hình trong số đó là những doanh nghiệp xuất khẩu tôm nước ấm đông lạnh sang thị
trường Hoa Kỳ. Trước tình hình đó, từ năm 2009 Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy
sản Việt Nam đã đề xuất với chính phủ về việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong
WTO để buộcHoa Kỳchấm dứt các biện pháp chống bán phá giá gây bất lợi cho nhà xuất khẩu
Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong nước. Vụ kiện tôm nước
ấm DS404 là vụ kiện đầu tiên và thắng lợi pháp lý đầu tiên của Việt Nam tại WTO với tư cách
là nguyên đơn. Vụ kiện này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp xuất
khẩu cũng như các cơ quan trong nước có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế. Chính vì vậy, nhóm chúng tui chọn chủ đề “Vụ kiện Tôm nước ấm DS404” làm
đề tài nghiên cứu cho môn học Pháp luật Thương mại Quốc tế.
Bài tiểu luận gồm bốn phần:
I.
II.
III. Kết quả và bài học kinh nghiệm
Do những hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm nên bài tiểu luận không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm thực hiện mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp,

nhận xét để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Page 1


CHƯƠNG I.MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VỤ
TRANH CHẤPDS404-WTO GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
1. Bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại
hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng
hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Điều 2 Khoản 1 Hiệp định về chống bán phá giá (ADA) quy định:
“Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào
lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu
như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp
hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu
theo các điều kiện thương mại thông thường”
Cụ thể, nếu một sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X nhưng lại
được xuất khẩu sang nước B với giá Y (Y
nước A sang nước B.
Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Và các “vụ kiện
chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của các vụ kiện) là
một hình thức để hạn chế hành vi này.

2. Chống bán phá giá
Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào
những hàng hoá bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán
phán giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương
mại
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất,
được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu
gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có
thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ có thể
thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống
bán phá giá , ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:


Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);
Page 2



Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc
bị đe doạ thiệt hại đáng kể hay ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong
nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);


Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói

trên;

3. Phương pháp “Quy về 0” (zeroing)
Zeroing là một phương pháp tính toán trong quá trình tính biên độ phá giá trong đó cho
phép quy về 0 tất các các giao dịch có biên độ phá giá âm. Mỹ là nước duy nhất trong 153
nước thành viên của WTO đang sử dụng biện pháp zeroing để tính thuế chống bán phá giá đối
với những mặt hàng xuất khẩu sang nước này.
Ví dụ, nếu một nhà xuất khẩu bị điều tra thực hiện 5 giao dịch xuất khẩu, trong đó có 2
giao dịch xuất khẩu có biên độ phá giá là 20%, 1 giao dịch có biên độ phá giá bằng 0 và 2 giao
dịch có biên độ phá giá -25% thì nếu không sử dụng phương pháp zeroing, bình quân biên độ
phá giá của nhà xuất khẩu này sẽ là: (20% + 20% + 0% - 25% - 25%): 5 = -7% (với biên độ
phá giá âm, tức là không phá giá, nhà xuất khẩu này sẽ không bị áp thuế).
Tuy nhiên, nếu sử dụng zeroing thì biên độ phá giá trung bình sẽ là:
(20% + 20% +0% + 0% + 0%): 5 =8% (và kết quả là nhà xuất khẩu sẽ bị áp thuế 8%).
cách này khiến cho mức thuế trở nên rất cao, và đã nhiều lần bị các thẩm phán
của WTO lên án.
Điều 2.4.2 Hiệp định ADA quy định “việc xác định có tồn tại biên độ phá giá hay
không trong suốt giai đoạn điều tra, thông thường sẽ dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị bình
quân gia quyền thông thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu có
thể so sánh được hay thông qua so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu trên cơ sở
từng giao dịch”. Ở đây, việc so sánh phải được thực hiện trên tất cả các giao dịch xuất khẩu
mới bảo đảm sự công bằng, vì trong các giao dịch đó có giao dịch có biên độ phá giá dương
nhưng cũng có các giao dịch có biên độ phá giá âm và giữa chúng khi bù trừ cho nhau sẽ phản
ánh một cách chính xác nhất về việc có bán phá giá hay không và mức độ bán phá giá tác động
lên thị trường nước nhập khẩu như thế nào. Khi sử dụng phương pháp zeroing với việc quy về
0 tất cả các giao dịch có biên đô phá giá âm là vi phạm vào nguyên tắc “so sánh công bằng”
mà Điều 2.4 Hiệp định ADA đã quy định.
Việc áp dụng phương pháp zeroing gây ra rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất
khẩu của nước xuất khẩu bởi một số lí do.
Thứ nhất, khi áp dụng phương pháp zeroing, hầu hết các kết quả điều tra đều đưa đến
kết luận là có bán phá giá và bị áp thuế chống bán phá giá cao. Điều đó gây bất công và tạo ra
nhiều khó khăn cho các nước xuất khẩu, từ đó hạn chế sự tự do hóa thương mại.
Thứ hai, biên độ phá giá bị đẩy lên cao không phản ánh đúng thực tế, khiến số tiền mà
doanh nghiệp phải nộp cho thuế chống bán phá giá là một gánh nặng tài chính cho các doanh
nghiệp xuất khẩu.
Page 3


Thứ ba, ngoài thiệt hại về việc phải đóng thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp
xuất khẩu còn phải chịu những hệ lụy khác từ việc áp thuế như phải ký quỹ một khoản tiền rất
lớn. Điều này một lần nữa gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi vốn – luôn là một
vấn đề của doanh nghiệp – phải dùng để ký quỹ. Điều này lại làm tăng lợi thế cạnh tranh của
các doanh nghiệp không bị áp thuế chống bán phá giá.
Như vậy, có thể hiểu là tại sao các nước xuất khẩu, thường là các nước đang phát triển,
hết sức lên án phương pháp “Quy về 0” và coi đó là một trong những biện pháp điển hình của
chống bán phá giá bất công.
Việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing khi tính các biên độ phá giá đã gặp phải sự phản đối từ
các đối tác thương mại của nước này. Họ cho rằng điều này không phù hợp với các quy tắc của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về hệ thống luật chống bán phá giá. Hoa Kỳ đã nhiều lần
bị kiện tại Tổ chức Thương mại thế giới với lý do nước này sử dụng zeroing trong các cuộc
điều tra chống bán phá giá, điển hình như các vụ Gỗ xẻ mềm của Canada (DS264), Ổ bi của
Nhật Bản (DS322), 21 vụ kiện chống bán phá giá từ EU (DS294), Tôm nước ấm đông lạnh
của Ecuađo (DS335), Tôm của Thái Lan (DS343), Thép không gỉ của Mêxicô (DS344)…

4. Các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.
4.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp (DBS)
Là đại hội đồng của WTO bao gồm thay mặt của các quốc gia thành viên thành lập các
Ban hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Ban Phúc thẩm bằng nguyên tắc “đồng
phủ quyết”. Giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho
phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ, trả đũa.
4.2. Ban Hội thẩm
Trực tiếp xem xét các vấn đề kiện tụng cụ thể trên cơ sở các quy định của WTO được
các nước nguyên đơn viện dẫn. Đưa ra Báo cáo trình DBS thông qua và giúp DBS đưa ra
khuyến nghị cho các bên tranh chấp.
4.3. Cơ quan phúc thẩm.
Xem xét lại báo cáo của ban Hội thẩm để đảm bảo tính chính xác trong quá trình giải
quyết tranh chấp của Ban hội thẩm nếu có yêu cầu.

5. Nguồn của cơ chế giải quyết tranh chấp (do DSU viện dẫn).
- Điều XXII và XXIII GATT 1947 ( Điều 3.1 DSU).
- Các quy tắc và thủ tục chuyên biệt hay bổ sung về giải quyết tranh chấp tại các Hiệp định
trong khuôn khổ WTO ( Điều 11.4 đến 17.7 GATT 1994).
- Quyết định về các Thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt” GATT 1966: các quy tắc áp dụng
cho việc giải quyết tranh chấp giữa một nước kém phát triển và một nước phát triển ( Điều
Page 4


3.12 DSU) và các thủ tục đặc biệt áp dụng cho tranh chấp có một bên là nước kém phát triển
nhất.

6. Trình tự giải quyết tranh chấp.
B1: Tham vấn
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4 DSU). Việc
tham vấn được tiến hành bí mật (không công khai) và không gây thiệt hại cho các quyền tiếp
theo của các Bên. Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành
tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp khẩn cấp – ví dụ hàng
hoá liên quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10 ngày và 20 ngày). Bên được
tham vấn có nghĩa vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo cơ hội thoả đáng" cho
Bên yêu cầu tham vấn.
Với các ưu thế nhất định như tiết kiệm được về thời gian, tiền bạc, quan hệ hữu hảo
giữa các bên tranh chấp… các cách chủ yếu dựa trên đàm phán ngoại giao này được
DSU đặc biệt khuyến khích sử dụng (Điều 3.7 DSU), và việc tìm ra được một giải pháp hợp
lý thoả mãn tất cả các bên tranh chấp có lẽ còn được coi trọng hơn cả việc đạt được một giải
pháp phù hợp với các qui tắc thương mại trong Hiệp định.
B2: Thành lập Ban hội thẩm.
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham
vấn từ chối tham vấn hay tham vấn không đạt kết quả trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu
cầu tham vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên, như trên đã đề cập, yêu cầu thành lập Ban hội thẩm có
thể đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ tục tham vấn,
hoà giải không dẫn đến kết quả gì. Văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải nêu rõ quá
trình tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ
pháp lý cho khiếu kiện.
Bất kỳ quốc gia thành viên nào có quyền lợi thực chất trong vấn đề tranh chấp đều có
thể thông báo cho DSB về ý định tham gia vụ việc với tư cách là Bên thứ ba. Các Bên thứ ba
này được tạo điều kiện để trình bày ý kiến bằng văn bản trước Ban hội thẩm.
Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures): Ban hội thẩm có chức năng xem xét
vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn
viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của mình để giúp DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị
thích hợp cho các bên tranh chấp.
B3: Phúc thẩm (Appelate Review).
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội
thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản. Khi có yêu cầu này thủ
tục phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Page 5

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Luật chống bán phá giá của Mỹ và vụ kiện bán phá giá tôm của Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
V Báo cáo chuyên đề: Vụ kiện bán phá giá cá tra - basa và tôm Tài liệu chưa phân loại 0
H Tiểu luận: Vụ kiện CBPG tôm của Mỹ với các doanh nghiệp XK tôm vào thị trường Mỹ của Việt Nam Luận văn Luật 2
P Vụ kiện CBPG tôm của Mỹ với các doanh nghiệp XK tôm vào thị trường Mỹ của Việt Nam , Luận văn Luật 0
S Tìm hiểu về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và xem xét vào vụ kiện tôm đông lạnh của Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0
D Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính việt nam Luận văn Luật 0
D Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành theo pháp luật việt nam hiện nay Luận văn Luật 0
D Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ công chứng tại VPCC hưng vượng Luận văn Kinh tế 1
D Phát triển dịch vụ logistics của Công ty Cổ phần Vinalines Logistics – Việt Nam trong điều kiện hội Luận văn Kinh tế 0
R Đánh giá điều kiện công trình văn phòng làm việc và dịch vụ cho thuê của công ty San Nam Quận Cầu Gi Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top