daigai

Well-Known Member
đề cương ôn thi học kì môn tài chính vi mô





Câu 1
: Trình bày các quan niệm về nghèo? Các chuẩn nghèo? Phân tích tác động của đói cùng kiệt đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia? Bạn có nhận xét gì về tình trạng đói cùng kiệt của Việt Nam trong thời gian qua?
các quan niệm về nghèo: Đói cùng kiệt là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Hiện nay có rất nhiều các quan niệm khác nhau về nghèo:
  1. quan niệm 1: cùng kiệt đồng nghĩa với thu nhập thấp: Đa số những người cùng kiệt có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức thu nhập thấp. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những người cùng kiệt là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản,tối thiểu của con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp,thậm chí còn không đủ. Chính vì vậy mà họ dùng thu nhập để đánh giá đói cùng kiệt ví dụ: ngân hàng thế giới xem thu nhập 1USD/ngày là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo, 2 USD cho khu vực mỹ la tinh.
  2. quan niệm 2: hội nghị chống đói cùng kiệt khu vực châu á- thái bình dương do ESCAP tổ chức tại băng cốc thái lan đã đưa ra định nghĩa cùng kiệt như sau:
+ cùng kiệt tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương.
+ cùng kiệt tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng có thể đục xem như việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội.
  1. quan điểm 3: theo WB đưa ra cùng kiệt là đói là thiếu nhà, bệnh không được đến bác sĩ không được đến trường không biết đọc biết viết, không có việc làm lo sợ co cuộc sống tương lai mất con do bệnh hoạn ít đực bảo vệ quyền lợi và tự do.
  2. quan điểm ở việt nam thừa nhận rằng đói cùng kiệt là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Các chuẩn nghèo: chuẩn nghèo: là thước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội ai thuộc diện cùng kiệt và ai không thuộc diện nghèo
Dựa vào các phương pháp tiếp cận chuẩn cùng kiệt chủ yếu đã đưa ra các chuẩn cùng kiệt sau đây: (chuẩn cùng kiệt do tộc cục thống kê ban hành )
+ cùng kiệt lương thực thực phẩm tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương thục thực phẩm làm sao để đảm bảo dinh dưỡng tối thiểu cho một người là 2100kcal/ngày đêm.
+ cùng kiệt chung:tổng chi dùng cho giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ 70% chi dùng dành cho lttpham 30% cho các khoản còn lại.
+chuẩn cùng kiệt theo thu nhập: giai đoạn 2010-2015 khu vực nông thôn là ≤562500 đ/ng/th khu vực thành thị ≤812.500 đ/ng/th
+ theo qđ 09/2011-ttg thì chuẩn hộ cùng kiệt ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân tù 400.000đ/ng/th trở xuống,còn ở nông thôn là 500.000đ/ng/th
Tác động của đói cùng kiệt đến sự tăng trương kinh tế của một quốc gia:
+ nếu tỷ lệ cùng kiệt đói cao sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế cũng như ngăn cản tăng trưởng kinh tế của một đất nước vì người cùng kiệt làm năng suất lao động thấp do sức khỏe kém và kỹ năng lao động bất cập sẽ làm sói mòn năng lực sản lượng sản xuất của nền kinh tế.
+ cùng kiệt đói cũng làm suy giảm năng lực tiết kiệm và đầu tu làm cho tăng trưởng kinh tế bị triệt tiêu dần.=>việc giảm cùng kiệt rất có lợi cho tăng trưởng kinh tế: khi mức cùng kiệt tuyệt đối giảm đáng kể thì chúng ta thường chứng kiến mức tăng trưởng kinh tế cao. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho giảm cùng kiệt chứ chưa phải là điều kiện đủ. Tăng trưởng kinh tế thì chưa thể khẳng định là có thể xóa đói giảm nghèo. Nếu tỷ lệ cùng kiệt đói thấp sẽ rất đến kinh tế tăng trưởng làm GDP/đầu người cao hơn, từ đó làm tăng thu ngân sách nhà nước. ngân sách nhà nước lớn, chính phủ thực hiện phúc lợi xã hội cao và khi đó sẽ làm tăng mức sống của người dân trong nước.
Tình trạng đói cùng kiệt của VN trong thời gian qua: việc đánh giá tình trạng cùng kiệt đói phụ thuộc vào tiêu chuẩn cùng kiệt do nhà nước đưa ra từng thời kỳ. theo chuẩn đói cùng kiệt của tổng cục thống kê thì tỷ lệ hộ cùng kiệt đói của VN đã giảm từ 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và xuống năm 28.9%. So với mục tiêu giảm ½ tỷ lệ đói cùng kiệt giai đoạn năm 1990-2015 thì VN được đánh giá là nước có tỷ lệ giảm hộ cùng kiệt tốt. Tỷ lệ đói cùng kiệt ở VN có xu hướng phân theo vùng, khu vực vùng núi và hải đảo đặc biệt khu vực nông thôn thì tỷ lệ hộ cùng kiệt tương đối cao. Trong những năm vừa qua việt nam đã và đang rất chú trọng đến công tác xóa đói giảm nghèo. Cho đến nay chúng ta đạt được những thành tựu ấn tượng nhất định như: năm 2011 VN đạt được những thành công lớn trong việc giảm cùng kiệt do tăng trưởng kinh tế, cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống cho người dân thông qua chương trình xóa đói giảm nghèo. Những thành tựu đó đã tạo được sự dồng thuận trong xã hội và được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. vào năm 2011 với những bất ổn về kinh tế, lạm phát cao cộng với hậu quả nặng nề của bão lụt nên đời sống người dân kho khăn, thiếu thốn. đứng trước tình hình mới của đất nước chính phủ đã kịp thời đề ra các chủ trương với nền kinh tế như thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm sắp xếp lại đầu tư công , ưu tiên tập trung phát triển phúc lợi xã hội và kết quả là đem lại tỷ lệ giảm cùng kiệt vào cuối năm 2011 giảm trên 2% còn 14%.Trong những năm gần đây tỷ lệ hộ cùng kiệt đã giảm nhưng tuy nhiên có một số thực trạng xảy ra trong việc giảm cùng kiệt của nhà nước đó là tỷ lệ tái cùng kiệt trở lại và sự không muốn thoát cùng kiệt của một số hộ gia đình làm công tác xóa đói giảm cùng kiệt ở việt nam chưa thực sự hiệu quả.công tác hạn chế tái đói cùng kiệt là một trong những nội dung được chính phủ quan tâm. Bên cạnh giảm cùng kiệt thì chính phủ còn hỗ trợ đào tạo nghề tạo việc làm phù hợp cho các hộ cùng kiệt để đảm bẻo thoát cùng kiệt một cách bền vững. sau khi trở thành thanh viên của WTO, thì việc xóa đói giảm cùng kiệt ở nước ta lại đặt ra những vấn đề mới, chính phủ luôn phải nắm bắt đực tình hình đời sống của dân cư để đưa ra những chính sách phù hợp cho từng thời kỳ phát triển, phù hợp mục tiêu của nhà nước trong từng giai đoạn. Mỗi một giai đoạn phát triển thì nhà nước có những tiêu chuẩn cùng kiệt khác nhau và ở việt nam thì tiêu chuẩn đánh giá cùng kiệt dần nâng cao

Câu 2: Hãy phân tích đặc điểm của tín dụng vi mô? Mô tả một sản phẩm tín dụng vi mô cụ thể? Bạn biết tới những chương trình tín dụng vi mô nào đã và đang thực hiện ở Việt Nam?
Đặc điểm của tín dụng vi mô: tín dụng vi mô là tín dụng tài chính cung cấp cho người nghèo. Mục đích là giúp họ có thể tham gia hoạt động sản xuất hay tiến hành kinh doanh. Tài chính vi mô sẽ là trung gian tài chính để đưa vốn đến người cùng kiệt với vai trò trung gian này, tín dụng vi mô phải là dịch vụ tài chính có sinh lời, chứ không phải là làm từ thiện nhưng tín dụng vi mô là một dịch vụ đặc biệt nên có các đặc điểm riêng biệt so với sản phảm tín dụng tài chính thông thường. Tín dụng vi mô có các đặc điểm như sau:
+ giành cho người nghèo: ngay từ mục đích đầu tiên của sản phẩm này đã nói lên đặc điểm riêng có này của sản phẩm, sản phẩm này là sản phẩm tài chính đặc biệt dành cho người nghèo, là những người có hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống thiếu thốn, bản thân họ thiếu vốn để phát triển. họ là những người khó khăn trong việc tiếp cận các tổ chức tín dụng thông thường. Với 1 tổ chức tín dụng thương mại thông thường thì người cùng kiệt là những đối tượng cho vay có rủi ro tín dụng rất cao (tỷ lệ vỡ nợ rất cao). Họ là những người có thu nhập thấp, là người không có tài sản thế chấp đề đảm đảm bảo việc trả nợ cho các khoản vay, thậm chí không có đất sản xuất. là những người không có khả năng làm ăn, phát triển sản xuất, khả năng sử dụng vốn hiệu quả còn hạn chế.Theo góc nhìn này, thì họ cho răng người cùng kiệt cần những sự giúp đỡ mang tính chất từ thiện nhiều hơn là thu lợi nhuận. Việc cho họ vay chỉ mang ý nghĩa phúc lợi và nhân đạo là chính chứ không được coi là khách hàng tiềm năng trong kinh doanh. Nhưng ngược lại thì tổ chức tài chính vi mô khi cung cấp sản phẩm tín dụng lại xác định đây chính là các khách hàng chính cho hoạt động kinh doanh của ho, là những khách hàng sẽ gắn bó với tổ chức lâu dài.
+ là những món tiền nhỏ: bắt nguồn từ chính đặc điểm đầu tiên mà đặc điểm khác biệt tiếp theo của sản phẩm chính là cung cấp các khoản tiền vay nhỏ. Người đi vay là người nghèo, những người mà chưa có khả năng sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả cao hay nói đúng hơn là nếu cho họ vay quá nhiều tiền thì họ chưa chắc đã biết cách sử dụng nó ra sao. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ chỉ đơn lẻ, ít vốn thường là hình thức cá nhân và hộ gia đình, khoản vay của họ có quy mô thấp hơn rất nhiều so với tín dụng thông thường. ngoài ra còn do tâm lý khoản vay lowbs thì đè nặng gánh nặng kho trả nợ .
+lãi suất hợp lý trả dần khoản nhỏ, tiết kiệm nhỏ và được rút một món tiền lớn hơn: nếu lãi suất quá thấp thì hoạt động kinh doanh của tổ chức gặp khó khăn thậm chí có thể bị phá sản do lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí. Nhưng nếu lãi suất quá cao thì lại có thể làm cho người cùng kiệt đi vay chị lãi quá cao dẫn đến khả năng trả nợ của họ gặp khó khăn vì vậy mà tổ chức cần có mức lãi suất phù hợp vừa duy trì được mức an toàn cho hoạt động vừa không gây khó khăn cho người nghèo. Người cùng kiệt thì thu nhập hàng thàng hàng tuần của họ tương đối là thấp vì vậy mà việc trả nợ có được trả dần bằng khoản nhỏ, để không gây áp lực cho họ về trả nợ vay.
+Là hình thức vay vốn có thể không yêu cầu có thế chấp: khách hàng của tcvm thường k có tài sản ký quỹ-vật được các ngân hàng TM sử dụng làm ts thế chấp cho các khoản vay.cũng có trường hợp khách hàng phải có ts thế chấp nhưng giá trị của tài sản đó rất nhỏ. Do vậy thông thường đối với các chương trình tín dụng vi mô hay các sản phẩm vi mô thì tài sản thế chấp sẽ được thay thế bằng tín chấp và tiết kiệm bắt buộc.
+ Là “ cần câu” chứ không phải “ con cá”: mục đích của TCVM là giúp ng cùng kiệt thoát cùng kiệt bền vững, do vậy ngoài việc cung cấp vốn cho họ tín dụng vi mô còn hướng dẫn cách họ sử dụng vốn hiệu quả,giúp họ kế hoạch trả nợ và tiết kiệm hiệu quả, từng bước thoát cùng kiệt vươn lên làm giàu vì mục tiêu cộng đồng, xã hội.
+Dành cho cá nhân vay, thường thông qua một tổ chức hay nhóm người( hình thức vay tín chấp): do đặc điểm đối tượng khách hàng là những ng nghèo, ng có thu nhập thấp …mỗi người cùng kiệt lại có 1 cách sx-kd và nhu cầu vốn khác nhau nên tín dụng vi mô là dành cho vay cá nhân, mặt khác họ lại sống tập trung trong 1 khu vực địa bàn, cùng nhóm xh như hội phụ nữ, nông dân, đồng hương… nên để thuận tiện cho vay và thu nợ thì thường thông qua 1 tổ chức hay nhóm ng.
+Chi phí hoạt động của 1 hệ thống tài chính vi mô khá là lớn, ẩn chưa nhiều rủi ro: do đây là tín dụng cho người cùng kiệt nên mạng lưới phân bổ khá rộng, bao phủ tất cả mọi nơi có người do vậy để quản lý được mạng lưới này cần 1 hệ thống tài chính lớn và mạnh, mặt khác cũng vì cấp tín dụng cho ng nghèo, thành phần ít có tài sản, tiền nên việc cho vay cũng gặp khó khăn, việc thu nợ vay lại càng khó khăn hơn, địa bàn, phương tiện đi lại cũng k thuận lợi…do đó nó ẩn chưa nhiều rủi ro
Mô tả 1 sản phẩm tín dụng vi mô cụ thể: Chính sách tín dụng đối với học sinh sinh viên:
Thứ nhất, về đối tượng vay vốn, theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 29/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, đối tượng được vay vốn tín dụng ưu đãi gồm:
– Học sinh, sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ hay chỉ mồ côi cha hay mẹ nhưng người còn lại không có khả năng lao động.
– Học sinh, sinh viên là thành viên của hộ gia đình thuộc một trong các đối tượng: Hộ cùng kiệt theo tiêu chuẩn quy định của pháp luật; Hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 150% mức thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình cùng kiệt theo quy định của pháp luật.
– Học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh trong thời gian theo học có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú. Đối tượng thụ hưởng chính sách vay vốn nói trên là rất rộng, khoảng 2,2 triệu học sinh, sinh viên, mức cho vay là 1,1 triệu đồng/tháng/học sinh, sinh viên (được Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh theo Quyết định số 1196/QĐ-TTg ngày 19/7/2013 về việc điều chỉnh mức cho vay đối với học sinh, sinh viên) thì quy mô của chương trình khoảng 40.000 tỷ đồng. Nguồn vốn để cho vay bao gồm nguồn cấp từ ngân sách nhà nước, trái phiếu do Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) phát hành.
Thứ hai, về lãi suất cho vay, theo Quyết định số 853/QĐ-TTg ngày 03/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ, lãi suất cho vay đối với học sinh, sinh viên là 0,65%/tháng (7,8%/năm), bằng mức lãi suất cho vay hộ nghèo, thấp hơn lãi suất cho vay các đối tượng chính sách. Việc quy định lãi suất cho vay nói trên không hàm ý đánh đồng cho vay học sinh, sinh viên với hộ cùng kiệt mà là sự sắp xếp vào nhóm được hỗ trợ cao hơn. Ngoài ra, nếu HSSV trả nợ trước hạn sẽ được giảm 50% lãi suất cho vay .Thứ ba, về cơ chế, thủ tục vay vốn, quy trình và thủ tục vay vốn :chương trình tín dụng học sinh, sinh viên, đảm bảo đơn giản, thuận lợi, phù hợp với yêu cầu thực tế, tránh phiền hà trong nhân dân. NHCSXH đã phối hợp với các Bộ, ngành, chính quyền địa phương cải tiến cơ chế cho vay, giải ngân như: giải ngân qua tài khoản thẻ, rà soát, bình xét đối tượng theo quy định làm căn cứ phê duyệt cho vay, tuyên truyền sâu rộng chính sách vay vốn từ nhà trường đến chính quyền địa phương, tiến hành giải ngân ngay khi hồ sơ, thủ tục được phê duyệt đầy đủ.
Thứ tư, về hỗ trợ giãn nợ hay khoanh nợ cho học sinh, sinh viên ra trường không có công ăn việc làm, Trong thời gian học tập học sinh, sinh viên được vay vốn chưa phải trả nợ gốc và lãi; học sinh, sinh viên được vay vốn phải trả nợ gốc và lãi tiền vay lần đầu tiên ngay sau khi học sinh, sinh viên có việc làm, có thu nhập nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày kết thúc khoá học; đến kỳ trả nợ cuối cùng, học sinh, sinh viên có khó khăn chưa trả được nợ, nếu có văn bản đề nghị gia hạn nợ thì được Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét cho gia hạn nợ, thời gian gia hạn nợ tối đa bằng 1/2 thời hạn trả nợ.
những chương trình tín dụng vi mô nào đã và đang thực hiện ở Việt Nam:
ở việt nam các chương trình tín dụng vi mô đang ngày càng phát triển, người cùng kiệt có thể tiếp cận tín dụng vi mô qua các tổ chức tài chính vi mô chính thức: quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các khu vực bán chính thức như: tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hôi. Các khu vực phi chính thức như cho vay tương hỗ cá nhân: họ hụi, cho vay nặng lãi.ỏ mỗi một khu vực luôn có những chương trình tín dụng vi mô riêng:+ngân hàng chính sách xã hội: có chương trình cấp tín dụng vi mô cho vay đối với hộ gia đình, đối tượng chính sách( chủ yếu đối tượng này là sinh viên nghèo, có hoàn cảnh khó khăn. Cấp tín dụng vi mô hỗ trợ học phí cho sinh viên): áp dụng cách cho vay ủy thác qua các tổ chức chính trị-xã hội trên cơ sở thiết lập các tiết kiệm và vay vốn ở thôn, bản làng, xã. Mức cho vay căn cứ vào nhu cầu nhưng không được vượt quá số cho vay tối đa theo quy định của pháp luật.
+ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn: cung cấp tín dụng ưu đãi cho các đối tượng như: cá nhân, hộ gia đình ở nông thôn, hợp tác xã, các chủ trang trại nông lâm trường. các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ phục vụ nông nghiệp trên địa bàn nông thôn.
+quỹ tín dụng nhân dân: cung cấp các dịch vụ và chương trình tín dụng vi mô cho các thành viên nhằm mục đích tương trợ, tạo điều kiện hoạt động tốt hơn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cai thiện đời sống cho các thành viên trong quỹ.
+ tín dụng vi mô bán chính thức: là các tín dụng được cung cấp dựa trên các chưng trình, dự án của các tổ chức quốc tế or trong nước như hội liên hiệp phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh… Các dự án tín dụng việt-bỉ, dự án hoạt động tiết kiệm cua UNLCEF. Chương trình tín dụng này tham gia hoạt động tín dụng nhưng chưa chịu sự quản lý của nhà nước theo luật tổ chức tín dụng.
+các chương trình tín dụng phi chính thức thường thấy ở nông thôn như: hụi, họ,mượn, mua chịu, vay nóng…

Câu 3 Khái/niệmtài chính vi mô là:có nhiều q/đ về k/n TCVM:
+Tcvm được coi là một pp phát triển kinh tê nhằm mang lại lợi ích cho dân cư thu nhập thấp( theo cẩm nang hoạt động tài chính vi mô)
+ theo quỹ đầu tư và phát triển liên hợp quốc: TCVM là việc cung cấp dịch vụ tài chính cho những người không tiếp cận được với hệ thống tài chính chính thức.
+ theo ADB:TCVM là việc cung cấp các dịch vụ tài chính như gửi tiền cho vay các dịch vụ thanh toán chuyển tiền và bảo hiểm tới các hộ cùng kiệt hộ thu nhập thấp và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.+theo nghị định 28/2005/NĐ-CP về tỏ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại việt nam : TCVM được hiểu là tài chính quy mô nhỏ đó là hoạt động cung cấp một số dvu tài chính quy mô nhỏ nhận tền gửi tiết kiệm bắt buộc tiền gửi tự nguyện, một số dịch vụ thanh toán cho các hộ gia đình cá nhân có thu nhập thấp đặc biệt là hộ gia đình cùng kiệt và người nghèo=>TCVM đem lại lợi ích cho người cùng kiệt không tiếp cận được với hệ thống tài chính chính thức. TCVM bao gồm những dvuj tài chính nhỏ như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, các dịch vụ khác.
Đặc điểm của tài chính vi mô:
+ khoản vay nhỏ, đặc trưng vốn lưu động: TCVM cấp tín dụng thường xuyên cho những khách hàng có thu nhập thấp(hội phụ nữ, nông dân…) vì vậy mà các khoản cho vay thường có giá trị rất nhỏ, thời gian ngắn và không có tài sản bảo đảm. chu kỳ vay lại thường xuyên với lãi suất áp dụng thường cao hơn so với khoản vay thông thường, cao hơn so với cho vay thương mại, thời gian vay ngắn để kiểm tra được chất lượng hoàn trả của khách hàng đồng thời cho khách hàng thấy hiệu quả của món vay.
+ thay thế tài sản thế chấp bằng tín chấp và tiết kiệm bắt buộc: khách hàng thường không có tài sản thế chấp nếu có thì giá trị cũng rất thấp vì thế nếu sử dụng theo cách có tài sản ký quỹ để cấp tín dụng thì khách hàng những người thu nhập thấp sẽ không có khả năng đáp ứng yêu cầu và không thể đi vay tín dụng được. chính vì vậy mà thay thế tài sản bằng tín chấp và tiết kiệm bắt buộc.
+những khoản vay lớn và tiếp theo phụ thuộc vào tình hình hoàn trả: khách hàng của TCVM thường bị hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn tài chính khác nên họ phụ thuộc vào các tổ chức tài chính vi mô hiện đại. TCVM sử dụng các chương trình khuyến khích để động viên khen thưởng cho những khách hàng thực hiện việc hoàn trả khoản vay tốt như tạo điều kiện vay dễ dàng với các khoản vay tiếp, giá trị khoản vay lớn hơn.
+tổ chức điểm thu phát vốn thuận tiện ngay tại khu dân cư sinh sống: để khách hàng có thể tiếp cận một cách nhanh nhất và tốt nhất với TCVM thì tổ chức TCVM phải có những mạng lưới thu/phát ngay tại khu sinh sống của dân cư, thuận lợi tốt nhất cho việc sử dụng các sản phẩm vì nếu như ở xa khu dân cư thì việc đi lại để đến các phòng giao dịch sẽ khó khăn chi phí tốn kém mà điều đó làm giảm kahr năng sử dụng sản phẩm của khách hàng với TCVM.
+phương pháp hoàn trả dần với luồng tiền mặt của người dân: khách hàng là những người cùng kiệt thường vay vốn nhỏ và đầu tư làm ăn với quy mô nhỏ. Để giảm thiểu rủi ro tài chính và giúp người cùng kiệt tính toán hoạt động kinh doanh thì tổ chức TCVM thường sủ dụng phương pháp hoàn trả dần phù hợp với vòng quay vốn của khách hàng và vòng quay vốn ở đây thường rất ngắn có khi là 1 ngày, 1 tuần.
+các sản phẩm tiết kiệm tin cậy: cung cấp ccas sp tiết kiệm tin cậy để người cùng kiệt coa thể hiểu về dịch vụ tiết kiệm có ý thức tiết kiệm và tích kuyx lại dù cho số tiền họ tích lũy được là rất nhỏ có thể chỉ là vài nghìn.
+ nâng cao sự gắn kết cộng đồng: khách hàng TCVM có thể lập thành các nhóm, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau tạo ra môi trường gắn kết, hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng.

Câu 4: vai trò của các bên liên quan trong hoạt động tài chính vi mô: các bên liên quan trong hoạt động của tổ chức tài chính vi mô gồm các tổ chức tài trợ cho hoạt động của tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô và các tổ chức phối hợp, khách hàng của tổ chức TCVM. Mỗi một bên liên quan thì đều có những vai trò riêng đối với hoạt động của TCVM như:
+ các tổ chức tài trợ cho hoạt động của tổ chức tài chính vi mô: gồm chính phủ các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ quốc tế. tất cả các nhà tài trợ đều tài trợ cho hoạt động TCVM theo một or 1 số các dvu như tài trợ cho xây dựng năng lực thể chất, tài trợ để trang trải những thiếu hụt trong quá trình hoạt động, tài trợ vốn vay or tài sản, cấp vốn vay để cho vay, các hạn mức tín dụng, bảo lãnh vốn thương mại, trợ giúp về kỹ thuật=>là bên đón vai trò cung cấp vốn đầu tiên cho các hoạt động TCVM( do phần lớn các tổ chức TCVM không huy động tiết kiệm và chưa tự bền vững về mặt tài chính để có thể vay vốn từ nguồn vốn thương mại cho hkd of mình).
+ các nhà cung cấp dịch vụ TCVM: gồm tổ chức phi chính phủ tổ chức cho vay và tiết kiệm các hiệp hội tín dụng các ngân hàng quốc doanh các ngân hàng thương mại or các tổ chức tc phi ngân hàng. Gồm –khu vực chính thức: là những tổ chúc được chính phủ ủy quyền và tuân theo các qđ và sự kiểm soát của nghành ngân hàng, đây là những tổ chức lớn có uy tín thuộc sở hữu chính phủ, huy động được số lượng lớn lượng tiền gửi lớn nhất từ đại bộ phận dân cư.có vai trò cung cấp dịch vụ ở cả đô thị ở cả nông thôn-khu vực bán chính thức :ko tuan theo các quy định của ngân hàng nhưng do chính phủ cấp giấy phép hđ chịu sự giám sát của cơ quan này( htx tín dụng-tiết kiệm..) va trò phục vu cho nhóm khách hàng trung bình , nhóm khách hàng này ở cùng địa phương, cung cấp các dv nằm giữa khu vực chính thức và bán chính thức, chú trọng đến huy động tiền gửi-khu vực không chính thức: hoạt động ngòai kiểm soát của chính phủ( các công ty tài chính phi chính thức)
+các tổ chức phối hợp: gồm các tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ các nhóm=>hỗ trợ về tài chính cho tổ chức tài chính vi mô or tham gia hỗ trợ hđ cho các tổ chức TCVM (giới thiệu khách hàng, nhận làm đơn thu phát vốn cho TCVM)
+khách hàng: đây là đối tượng duy trì hđ của TCVM gồm các cá nhân làm ăn nhỏ, người sản xuất nhỏ, nếu TCVM mà không có khách hàng thì sẽ không thể tồn tại và phát triển được.
vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam trong tiến trình giảm nghèo: được thành lập vào ngày 31/08/2002 theo quyết định số 525/ttg trên cơ sở hđ cả ngân hàng cung phục vụ người cùng kiệt trước đây. NHCSXH có nhiệm vụ cung cấp tín dụng cho hộ cùng kiệt và các đối tượng chính sách khác nhau, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. lÀ tổ chức tài chính cung cấp tín dụng cho người cùng kiệt lớn nhất ở việt nam. Sau gần 8 năm hđ đã hỗ trợ vốn cho hơn 10.6 tr họ cùng kiệt ở việt nam với 6.7 tr khách hàng đang còn dư nợ giúp gần 2.1 tr hộ thoát nghèo.NHCSXH là bàn đạp là người cung cấp vốn cho những người cùng kiệt vươn lên thoát nghèo, giúp nhà nc thực hienj đực chính sách xóa đói giảm cùng kiệt được hoàn thành tốt. là một bộ phận quan trọng thay nhà nước tiếp cận tới người cùng kiệt để thực hiên cung cấp vốn cho họ để họ có vốn kinh doanh thoát nghèo. Bên cạnh đó NHCSXH còn thực hiện chương trình cho vay và giải quyết việc làm cho vay học sinh viên có hoàn cảnh khó khăn điều này cung cấp điều kiện tốt và tiếp sức để những người cùng kiệt có hoàn cảnh khó khăn có thể được đi học được tiếp cận tri thức và sử dụng chính chi thức đó để thoát nghèo=> vài trò của NHCSXH có vai trò vô cùng quan trọng là cầu nối để nhà nc thực hiện chính sách xã hội xóa đói giảm cùng kiệt của mình

Câu 5: Hãy phân tích các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo? Theo bạn, trong các nguyên nhân đó, nguyên nhân nào là cơ bản nhất? Làm thế nào để thoát cùng kiệt một cách bền vững?
Các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo: có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Có thể kể một số các nguyên nhân sau đây:
+do nguồn lực hạn chế và thiếu thốn:- người cùng kiệt là nhữn người không có vốn, sự thiếu hụt về vốn là nguyên nhân mà người cùng kiệt cho rằng họ có ảnh hưởng lớn nhất đến sự cùng kiệt đói của họ,ko có vốn để sản xuất kinh doanh là trở lực lớn nhất của người lao động khi tham gia vào nèn kinh tế thị trường. vốn là điều kiện ban đầu cần có để họ có thể thoát cùng kiệt được nhưng họ lại không có vốn vì vậy mà người cùng kiệt không thể thoát khỏi cảnh cùng kiệt đói. Ngày nay việc tiếp cận tín dụng của ng cùng kiệt là rất khó khăn do rất nhiều lý do đem lại rủi ro tài chính cao cho các tổ chức tín dụng( không có khả năng hoàn trả vốn và lãi. Dùng vốn không thể sinh lợi do không biết sử dụng vốn hiệu quả) vì vậy mà sự thiếu về nguồn lực làm ngùi cùng kiệt càng cùng kiệt hơn
- cùng kiệt do thiếu của cải vật chất: thiếu or không có tài sản vật chất là nguyên nhân dẫn đến đói cùng kiệt của hầu hết các hộ gia đình, không có của cải vật chất không có khả năng sản xuất kinh doanh, kém nhạy bén với sự nắm bắt các cơ hội cũng như các xu thế phát triển kinh tế. không có tài sản vật chất họ không thể bảo vệ sức khẻo của chính bênh tật phải mất các chi phí lớn hơn khi gặp thiên tai dịch bệnh và đó cũng là nguyên nhân dẫn họ tới cùng kiệt đói nhiều hơn.
+ cùng kiệt do trình độ học vấn thấp việc làm thiếu và không ổn định: người cùng kiệt thường là những là những người có trình độ học vấn tương đối thấp. sự hiểu biết của không có. Người cùng kiệt không có đủ điều kiện để học tập tri thức, như chúng ta đã biết theo tháp nhu cầu của maslow thì nhu cầu đầu tiên là nhu cầu sinh lý( ăn ngủ nghỉ) rồi mới đến các như cầu khác. Với người cùng kiệt thì ngay đáp ứng nhu cầu tối thiểu là sinh lý cũng chưa thể đáp ứng đầy dủ còn thiếu thốn, ăn không đủ thì sao họ có thể học tập được. Sự thiếu tri thức dẫn đến sự thiếu tự tin kém năng động làm họ rơi vào tình trạng cùng kiệt triền mien. không tri thức họ không có khả năng làm việc hiệu quả không có khả năng có công việc tốt và ổn định, công việc của họ chỉ là công việc chân tay khó nhọc mà thu nhập thì ít. Thu nhập không đủ cũng dấn đên sự cùng kiệt đói kéo dài hơn trog cuộc sống của ng nghèo
+ng cùng kiệt không đủ đk tiếp cận với pháp luật: người cùng kiệt không được học thì họ không có khả năng tiếp cận với hệ thống pháp luật do không được gd về pháp luật điều đó làm cho họ sẽ bỏ qua các quyền cơ bản của bản thân mình đáng ra đựơc hưởng. khi có những trường hợp ảnh hửơng đến quyền lợi của họ về công việc đời sống họ cũng không biết cách bảo vê bản thân mình bằng các điều luật làm và khi đó họ sẽ bị thiệt thòi. Ví dụ nếu họ không có kiến thức pháp luật về việc làm, người thuê họ làm việc trả lương thấp hơn so với những gì họ bỏ ra và cả thời gian làm trong ngày dẫn đến họ làm việc mệt mà tiền lương thấp
+ do các nguyên nhân vè nhân khẩu học: quy mô và cơ cấu gia đình cũng làm ảnh hưởng đến mức độ cùng kiệt đói của hộ gia đình. Gia đình mà đông con thì tỷ lệ cùng kiệt là rất lớn, đông con nhu cầu chi tiêu tăng len mà mức tăng của chi tiêu gấp nhiều lần so với mức tăng của thu nhập làm họ không đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu dẫn đến cùng kiệt đói hơn. Trong một gia đình số người đi làm và số người đang sống phụ thuộc( trẻ em và ngừi già) cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ cùng kiệt của gia đình. Gia đình nào mà có số người sống phụ thuộc lớn hơn rất nhiều so với số những người đi làm thì những người sống phụ thuộc là gánh nặng của những người đi làm. Người làm không đủ thu nhập để chi trả các khoản chi tiêu cho những người khác rất đến cùng kiệt đói kéo dài.
Giới tính người làm chủ gia đình cũng có ảnh hưởng, thống kê đa số những hộ cùng kiệt là người làm chủ là phụ nữ or người đi làm chính trong gia đình là người phụ nữ. người phụ nữ dù sao họ cũng làm được những công việc nặng nhọc rồi một số công việc có thu nhập cao thì người phụ nữ cũng không có khả năng làm được việc vì vậy mà làm thu nhập của gia đình sẽ giảm hơn rất nhiều so với những gia đình có nam giới đi làm.
+ do nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác : người dịch bệnh vì họ không có khả năng phòng tránh và điều đó làm khi gawpkj những tổn thương này họ rất ít khả nag phục hồi và thường khó khắc phục được những rủi ro dẫn đến họ càng thiếu thốn hơn rất nhiều, cùng kiệt đói hơn.
+các nguyên nhân khác: vị trí địa lý, khí hậu…
=>Trong các nguyên nhân tren thì nguyên nhân thiếu thốn về vốn thiếu về tài sản vật chất là nhân tố quan trọng nhất vì đây là nguyên nhân kéo theo các nguyên nhân khác, họ không có vốn không thể làm được gì trong nền kinh tế thị trường. không có vốn họ không đực trang bị các kiến thức vì vậy mà không biế kinh doanh. không có kiến thức họ sẽ không biết cách thoát cùng kiệt như thế nào, không biết cách sử dụng đồng vốn hiệu quả. khi không có vốn thì họ sẽ không được đi học không được đào tạo nghề nghiệp bài bản khi đó họ sẽ không thể có công việc có thu nhập cao mà chỉ có những công việc không ổn định. Nói tóm lại thì việc thiếu thốn về vốn và thiếu về các nguồn lực là nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo. Từ nguyên nhân này dẫn theo các nguyên nhân khác hay các nguyên nhân khác đực phát sinh từ nguyên nhân này
Để thoát cùng kiệt một cách bền vững: nguyên nhân chính của việc dẫn đến đói cùng kiệt ở việt nam đó chính là sự thiếu về nguồn lực về vốn thiếu về cơ sở vật chất làm dẫn đến các nguyên nhân khác của sự đói nghèo. Vì vậy để thoát ngheo một cách bền vững cần có giải pháp tốt giải quyết về vấn đề thiếu nguồn lực. sự tiếp cận với hệ thống tín dụng vi mô là một biện pháp tốt nhất để giúp người cùng kiệt thoát cùng kiệt một cách bền vững.tín dụng vi mô chính do các tổ chức tài chính vi mô cung cấp, bên cạnh sự cung cấp vốn cho người cùng kiệt thì tổ chức tài chính vi mô còn tổ chức các dịch vụ phi tài chính như dạy nghê, cung cấp tri thức về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh giúp người cùng kiệt có thể sử dụng kiến thức đó để phát triển kinh tế gia đình tăng thu nhập từ đó thoát đực tình trạng đói nghèo. Chỉ có cấp vốn và giúp người cùng kiệt biết cách sử dụng vốn hiệu quả đó chính là biện pháp tốt nhất để giúp cùng kiệt một cách bền vững.

Câu 6: Người ta nói: Các tổ chức Tài chính vi mô đã cho người cùng kiệt “cái cần câu”, chứ không phải cho người cùng kiệt “con cá”. Bạn hãy bình luận câu nói trên?
Các tổ chức tài chính vi mô ra đời có tác động và vai trò rất lớn trong công tác xóa đói giảm cùng kiệt của đất nước.Nhờ vào các sản phẩm đa dạng của các tổ chức tài chính vi mô mà công cuộc xóa đói giảm cùng kiệt của đất nước đã có những thành tựu to lớn cho hành trình phát triển đất nước.Lâu nay, trong chuyện xóa đói giảm nghèo, người ta hay nói chuyện đưa cho người cùng kiệt con cá hay cái cần câu, có nghĩa là làm thế nào để giảm cùng kiệt một cách bền vững. Trước hết chúng ta hãy xét về “con cá”: nói một cách ẩn dụ thì việc đưa con cá chính là việc giúp đỡ cái khó khăn trước mắt, chính là việc đưa cho người cùng kiệt con cá để người đó ăn cho đỡ đói, sau đó cùng kiệt vẫn hoàn cùng kiệt khó khăn vẫn hoàn khó khăn. Có thể lo được bữa đầu do đựơc cung cấp cá khi đói, nhưng những bữa ăn lần sau thì họ lấy cá ở đâu để làm thức ăn cho mình và gia đình.Việt nam ta là một nước nghèo, kinh tế chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thương xuyên bị hạn hán thiên tai. Sau mỗi lần thiên tai biết bao gia đình mất nhà mất cửa, mất tiền bạc những tài sản của họ gần như mất hết. Khi đó họ rơi tình trạng đói khổ, nhu cầu đầu tiên của con người chưa thể đáp ứng, họ bị đói bị bệnh tật, lúc này đây việc cung cấp “ con cá” là cần thiết là đúng đắn và không gì quý hơn con cá khi đó, con cá lúc này đây sẽ là lương thực, sản phẩm thiết yếu giúp họ qua cái đói cái khát. Việt nam ta vẫn luôn có một truyền thống quý báu của dân tộc là “ lá lành đùm lá rách”, vì vậy không thể đúng nhìn những người đồng bào mình bị chết đói trong khi mình có thể giúp đỡ đựơc cho họ vậy việc đưa “ con cá” cho người cùng kiệt trong tình huống đó sẽ là đáng quý là phù hợp. nhưng khi họ không còn đói khát trước mắt nữa thì chúng ta có nên tiếp tục cung cấp cho họ con cá nữa ko. Câu trả lời sẽ là không vì khi đưa con cá tiếp tục họ sẽ không biết cách tìm kiếm biện pháp kiếm được con cá của chính mình, luôn trông chờ người khác đem đến vậy ở đây chúng ta nên đưa gì cho họ? câu trả lời đó là nên đưa cho họ chiếc cần câu, vì nếu đưa cho họ cần câu thì họ buộc phải đi câu lấy cá mà ăn, buộc phải lao động để hưởng thành quả, không trông chờ vào ai đó nữa. đưa cần câu cũng có nghĩa là hỗ trợ để họ tự vươn lên thoát nghèo, tự vươn lên để phát tiển. con cá là sự giúp đỡ tức thời, trực tiếp,Cần câu là sự giúp đỡ nền tảng, gián tiếp cho người nghèo. Cùng xét về vấn đề “ cần câu”. Câu hỏi đặt ra cần câu ở đây là gì? Và việc cung cấp cần câu trong các tổ chức tài chính vi mô có tác động như thế nào trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.Xóa đói giảm cùng kiệt bền vững là mục đích chính trong việc nâng cao đời sống của bộ phận dân cư nghèo, vậy làm thế nào để đạt dc mục đích trên, cho họ tiền để giảm cùng kiệt hay là cho họ vốn và cách sử dụng vốn để họ kinh doanh. Khi chúng ta cho người cùng kiệt tiền họ sẽ dùng số tiền đó chi tiêu nhu cầu thiết yếu có khi dùng số tiền đó mua của cải và rồi sau một thời gian khi số tiền đó hết thì họ lại tiếp tục rơi vào hoàn cảnh cùng kiệt đói.vậy thì xóa đói giẩm cùng kiệt không thể thành công. Việc cho tiền cho người cùng kiệt cũng không khác gì việc cho họ con cá ta đã phân tích ở trên. Nó chỉ có thể giải quyết các nhu cầu trước mắt mà không thể giải quyết đực vấn đề cùng kiệt đói kéo dài. Tài chính vi mô là tổ chức tài chính dành cho người cùng kiệt nhưng cái họ cung cấp không phải cái gọi là con cá. Cái mà họ cung cấp chinh là cái cần câu để người cùng kiệt chủ động đi câu, chủ động tìm con cá của chính họ. việc cung cấp cần câu ở đây sẽ giúp họ có công cụ để ngày này hay ngày sau vẫn có thể ăn cá. Cần câu mà các tổ chức TCVM cung cấp đó chính là vốn và cung cấp các dịch vụ phi tài chính để trang bị cho người cùng kiệt trang bị kiến thức về cách sử dụng vốn. vốn đựơc cung cấp dưới hình thức vay vốn để họ có trách nhiệm với khoản vốn được cấp, có ràng buộc để cố gắng trả nợ. chứ nếu cho họ tiền thì họ sẽ không có trách nhiệm để sử dụng vốn hiệu quả, dùng vốn đúng mục đích. Còn việc cung cấp ccas dịch vụ phi tài chính đó cung cấp việc dạy nghè cho họ giúp họ có công cụ làm kinh doanh giúp họ có kiến thức ngành nghề kinh doanh. Vì đa phần người cùng kiệt là người mà kiến thức thấp, nếu không dạy nghề cho họ thì dù có cấp vốn họ cũng không biết cách sử dụng vốn như thế nào để sinh lợi. chỉ có như vậy mới giúp người cùng kiệt có thể tự kiếm thu nhập tự kiếm con cá của mình, chỉ như vậy thì họ mới nâng mức sống của gia đình mới thoát cùng kiệt và không bị tái cùng kiệt trở lại. khi tỏ chức TCVM cấp tín dụng cho người cùng kiệt là cho họ vay chứ không phải cho họ vì vậy mà họ luôn phải có ý thức phát triển số vốn đó để còn hoàn trả vốn, không bị thụ động mà chủ động với số vốn của mình, chăm chỉ để làm đồng vốn tăng lên. Vây có thể nói tổ chức TCVM cho ng cùng kiệt cái cần câu chứ không phải cho con cá đề làm giảm nghèo.

Câu 7: Phân tích vai trò của Tài chính vi mô trong tiến trình giảm đói cùng kiệt của mỗi quốc gia?
Vai trò của TCVM trong tiến trình giảm đói cùng kiệt ở việt nam:Mặc dù đã đạt được những thành tựu ấn tượng về giảm cùng kiệt và phát triển kinh tế, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nguy cơ giảm cùng kiệt chưa bền vững. Một trong những trở ngại lớn là thiếu các dịch vụ tài chính phù hợp và sẵn sàng trong khu vực nông thôn. Ba tổ chức chính cung cấp tài chính vi mô cho đối tượng khách hàng thu nhập thấp là: Các tổ chức tài chính vi mô, NHCSXH, hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân. Trong đó, các TCTCVM và NHCSXH tập trung nhiều hơn vào đối tượng khách hàng nghèo. Nhờ vào các hoạt động tài chính và phi tài chính cho người cùng kiệt của tổ chức tài chính vi mô mà công cuộc xóa đói giảm cùng kiệt ở việt nam đã có những thành tựu. vai trò của tổ chức tài chính vi mô trong tiến trình xóa đói giảm nghèo: +tạo ra một kênh tiếp vốn quan trọng cho người cùng kiệt tại các địa bàn khó khăn nhất là chị em phụ nữ: hiện nay các tổ chức tài chính cung cấp rất nhiều các dịch vụ tài chính cho khahcs hàng, tuy nhiên người cùng kiệt thường khó tiếp cận được với những dịch vụ này do không có đủ điều kiện như tài sản thế chấp, cầm cố, cũng có trường hợp các tổ chức tài chính chưa có mạng lưới ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa nên bản thân họ cũng khó tiếp cận được với khách hàng ở địa phương. Các tổ chức tài chính vi mô hiện nay hướng đến đối tượng là người cùng kiệt và thường xuyên hoạt động tại những địa bàn khó khăn nên người cùng kiệt ở khu vực này có cơ hội tiếp cận được những dịch vụ tài chính phù hợp với nhu càu khả năng của mình.+đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ tài chính thông qua cách tiếp cận dễ dàng nhanh chóng thuận lợi: những sản phẩm tài chính vi mô được thiết kế riêng cho người cùng kiệt nên người cùng kiệt có thể có điều kiện tiếp cận những sản phẩm này khá dễ dàng, nhanh chóng thuận lợi. trên thực tế, có những tổ chức tài chính vi mô mang mạng lưới của mình rộng khắp ở các địa bàn với số lượng thành viên lớn nên họ có điều kiện cung cấp dịch vụ tốt cho khách hàng của mình ví dụ như sản phẩm tiết kiệm , khách hàng không cần mang đi gửi mà có người đến tận nhà để nhận tiền.+đa dạng hóa nguồn thu nhập của các hộ cùng kiệt giảm các nguy cơ tổn thương kinh tê và nâng cao mức sống:bên cạnh việc cung cấp tcvm còn cung cấp các dịch vụ phi tài chính giúp người cùng kiệt có khả năng kinh doanh tạo ra các khoản thu nhập từ đó tăng thêm năng lực về tài chính cho mình, giúp người cùng kiệt thoát nghèo.+ tạo ra mối liên kết cộng đồng, nâng cao nhận thức và năng lực cho cộng đồng nâng cao vị thế của phụ nữ trong XH: một số sản phẩm phải có liên kết nhóm là sự thay thế cho thế chấp. do đó để đảm bảo lợi ích chung của nhóm thì các thành viên trong nhóm phải có sự hiểu biết lẫn nhau và có uy tín nhất định. Chính vì vậy mà sản phẩm tài chính vi mô tạo ra sự liên kết cộng đồng khá bền vững. trên thực tế thì TCVM chủ yếu tập trung vào phụ nữ đối tựng dễ bị tổn thương nhất, do vậy sẽ góp phần thực hiện bình đẳng giới, cơ hội để phụ nữ thay đổi hoàn cảnh sống của mình nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình cũng như xã hội=>tcvm có vai trò quan trọng trong tiến trình giảm cùng kiệt của mỗi đất nước.qua việc cung cấp các dịch vụ sản phẩm của mình mà tổ chức tài chính vi mô tạo động lực cho người cùng kiệt có khả năng kinh doanh, tạo điều kiện cung cấp các nhu cầu về vốn.qua nhiều năm qua nhờ vào sự đóng góp của tcvm mà nước ta đã giảm đực tỷ lệ hộ cùng kiệt đáng kể. tùy vào mỗi quốc gia mà vai trò của TCVM thể hiện ở những điểm mạnh và điểm yếu riêng trong quá trình giúp đất nước xóa đói giảm nghèo

Câu 8: Trình bày đặc điểm của sản phẩm dịch vụ tiết kiệm tương hỗ trong hoạt động của Tài chính vi mô? Tại sao Tiết kiệm bắt buộc luôn là một quy định trong hoạt động cho vay của tài chính vi mô?
Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ tiết kiệm tương hỗ trong hoạt động của Tài chính vi mô: là sản phẩm mà tổ chức TCVM cung cấp cho khách hàng, theo đó khách hàng có thể trích một phần thu nhập của mình để gửi tiết kiệm nhằm tích lũy cho tương lai. Mục địch của các khoản tiết kiệm tương hôc trong hoạt động tài chính vi mô đó là không nhằm mục đích sinh lời như mục đích tiết kiệm ở các tổ chức tài chính khác vì vậy mà không đặt quá nặng vào vấn đề lãi suất hay nói cách khác là họ không đặt vấn đề lợi nhuận lên hàng đầu. việc tiết kiệm của khách hàng trong tổ chức tài chính vi mô nhằm mục đích an toàn hơn là mục đích sinh lợi. đặc điểm của các khoản tiết kiệm này:+ là những khoản tiền nhỏ góp nhặt thành những khoản tiền to: khách hàng cảu các tổ chức tài chính vi mô thường là những người cùng kiệt thu nhập của họ rất thấp, khả năng để ra những khoản tiền lớn hầu như không có, nếu có tích cop lại mà để trong nhà thì khi nhu cầu của họ xuất hiện họ sẽ sử dụng và vì thế họ sẽ không bao giờ tiết kiệm được. Nhu cầu của những người về chi tiêu thường rất lớn như ôm đau, bẹnh tật…việc tiết kiệm các khoản nhỏ của họ sẽ không được các tổ chức tín dụng thông thường chấp nhận vì số tiền mà họ để ra hàng tuần, hàng tháng chỉ là con số chục nghìn hay trăm nghìn đồng mà thôi. Vì vậy tiết kiệm trong tổ chức tài chính vi mô chính là sự góp nhặt các nguồn tài chính nhỏ lẻ của người dân trong một thời gian tích lũy dài. Là sự tích lũy từ thu nhập của mình để đóng gớp thành một khoản tiết kiệm theo tuần theo tháng.+ là sản phẩm mang tính bắt buộc cho các sản phẩm cho vay: nhiều các sản phẩm tiết kiệm của tổ chức tài chính vi mô mang tính bắt buộc mà họ phải đóng góp để được cung cấp sản phẩm tín dụng của tổ chức. đó như là điều kiện, lời đảm bảo của khách hàng với tổ chức khi đi vay, sự tích lũy này sẽ giúp các tổ chức tài chính vi mô thu được các khoản nợ cho vay.
Tiết kiệm bắt buộc luôn là một quy định trong hoạt động cho vay của tài chính vi mô vì: tiết kiệm bắt buộc là số tiền do người vay đóng góp như 1 đk để nhận tiền vay đôi khi nó được tính bằng phần trăm của món vay, đôi khi nó lại là một giá trị danh nghĩa nào đó. Nhìn chung tiết kiệm có thể coi như là một phần của sản phẩm cho vay vì nó có có quan hệ chặt chẽ với việc nhận và hoàn trả món vay. Tiết kiệm bắt buộc trong sản phẩm cho vay được dùng để:
+phản ánh giá trị của thông lệ tiết kiệm đối với người vay
+đóng vai trò như một cơ chế bảo đảm bổ sung nhằm bảo đảm hoàn trả
+phản ánh khả nag quản lý dòng tiền và thực hiện sự đóng góp thường kỳ của khách hàng
+giúp hình thành nên cơ sở tài sản cho khách hàng.
Tiết kiệm bắt buộc được coi như một hình thức thế chấp, đảm bảo cho sự hoàn trả của khách hàng với tổ chức vì vậy tiết kiệm bắt buộc luôn là một quy định trong hoạt động cho vay của tổ chức tài chính vi mô

Câu 9: Hãy mô tả những rủi ro mà các tổ chức tài chính vi mô phải đối mặt? Rủi ro lớn nhất trong hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam là gi? Biện pháp phòng tránh?
Những rủi ro mà các tổ chức tài chính vi mô gặp phải: tài chính vi mô đã được công nhận chính thức ở Việt Nam và trở thành một phần của hệ thống tài chính quốc gia. Đây chính là sự ghi nhận của Nhà nước về những đóng góp của các tổ chức tài chính vi mô trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu phát triển chung của đất nước.Việc phát triển các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam hoạt động bền vững, theo đúng các chuẩn mực và có trách nhiệm xã hội là mục tiêu hướng tới của các tổ chức tài chính vi mô và của cơ quan quản lý nhà nước. Đây cũng là mối quan tâm chung của các tổ chức quốc tế đã và đang hỗ trợ hoạt động tài chính vi mô ở VN.Cùng với đó, vấn đề quản lý rủi ro cũng là chủ đề nổi bật được đề cập đến.Là một tổ chức tài chính, TCTC vi mô khi cung cấp các sản phẩm của mình cũng gặp một số các rủi ro sau đây:
+ rủi ro hoạt động:trong hoạt động tài chính của mình, khi triển khai các sản phẩm cung cấp cho khách hàng, nếu không được thực hiện một cách bài bả, áp dụng các quy tắc cẩn trọng thì tổ chức TCVM cũng gặp phải những rủi ro hoạt động như:
-rủi ro tín dụng: Đối tượng cấp tín dụng của tổ chức tài chính vi mô là những người nghèo, là những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Họ là những người có thu nhập thấp và không có tài sản thế chấp, họ không có kiến thức và khả năng biết sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả. Sự đảm bảo của họ trong các khoản vay thường là uy tín với các tổ chức tài chính vi mô và sự tin tưởng của tổ chức với họ vì vậy mà các tổ chức tài chính vi mô khi áp dụng chương trình cấp tín dụng vi mô cho họ, nếu như không cung cấp kiến thức để họ có thể sử dụng vốn tốt hơn, biết kiểm soát các quá trình sử dụng vốn của họ để đảm bảo hiệu quả những nguồn vốn đi vay thì khả năng gặp các tổ chức này gặp phải nợ xấu là rất cao. Và khi đó vì không có tài sản thế chấp mà các tổ chức TCVM rất dễ bị mất vốn cho vay. Dẫn đến nguy cơ vỡ nợ tín dụng cao so với các tổ chức khác.
-rủi ro gian lận của các tổ chức tài chính vi mô:do việc cung cấp thông tin một cách bất cân xứng. các tổ chức tài chính vi mô sẽ không nắm rõ được tình hình thực tế của khách hàng do khách hàng cố tình giấu thông tin.. việc kiểm soát các hoạt động sử dụng vốn của khách hàng còn chưa kiểm soát được triệt
– rủi ro an ninh của các tổ chức tài chính vi mô
+rủi ro bên ngoài của tổ chức tài chính vi mô như: rủi ro về hành lang pháp lý, rủi ro về sự cạnh tranh, của kinh tế vĩ mô: các tổ chức TCVM đã gặp phải một số khó khăn, bất cập trong việc duy trì tỷ lệ khả năng chi trả và đã phải chịu ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của mình. Để đảm bảo tuân thủ quy định, các tổ chức TCVM phải duy trì số tiền lớn để tại két hay Ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn của khách hàng thành viên chưa được đáp ứng một cách đầy đủ do nguồn vốn của tổ chức còn hạn chế. Nhà nước quy định tỷ lệ khả năng chi trả với các tổ chức tài chính vi mô là quá cao( 20%). trong bối cảnh TCVM hiện nay khi nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước còn hạn hẹp, tiết kiệm bắt buộc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động tiết kiệm thì quy định này vô hình chung làm giảm khả năng gia tăng nguồn vốn cho vay của tổ chức TCVM và giảm cơ hội tiếp cận vốn TCVM của các cá nhân có hoàn cảnh khó khăn. Gây ra hậu quả là lợi nhuận hoạt động của tổ chức không cao vì vậy mà không thể bù đáp các chi phí mà đã bỏ ra=> rủi ro bị ngừng hoạt động ro không đủ khả năng sinh lời. mặt khác bên cạnh đó các tổ chức tài chính vi mô còn gặp phải rủi ro về cạnh tranh rất cao so với các tổ chức tín dụng khác cũng đe dọa đến khả năng sinh lời trong hoạt động của tổ chức TCVM.
+ rủi ro thể chế: nhiệm vụ xã hội, nhiệm vụ thương mại, tính phụ thuộc
+ rủi ro tài chính:
– rủi ro về thanh khoản: khi rủi ro tín dụng xảy ra, rủi ro mất vốn xảy ra thì các tổ chức tài chính vi mô sẽ gặp thêm vấn đề về thanh khoản do không đáp ứng được các nhu cầu chi trả của tổ chức
-rủi ro về lãi suất: tổ chức tài chính vi mô có chi phí hoạt động rất lớn do phải chuẩn bị về đội ngũ nhân lực tiếp cận với khách hàng, đến tận nơi để cung cấp dịch vụ. các khoản chi phí để đảm bảo hoạt động của tổ chức thường cao hơn so với các tổ chức tài chính thông thường vì vậy để dảm bảo hoạt động có thể duy trì và sinh lời thì các tổ chức tài chính vi mô phải áp dụng mức lãi suất cho vay cao, nhằm đem lại lợi nhuận để bù đáp được các chi phí bỏ ra. Tuy nhiên nếu lãi suất quá cao sẽ là gánh nặng trả nợ với khách hàng đặc biệt ở đây là người nghèo. Lãi suất quá cao sẽ làm giảm khả năng trả nợ của họ gây ra các rủi ro về tín dụng. vì vậy mà đưa ra lãi suất phù hợp để không gặp phải rủi ro lãi suất là vấn đề lớn mà các tổ chức TCVM cần quan tâm. Mặt khác nhà nước thường quy định vê các mức lãi suất cho vay với các tổ chức TCVM, nếu mức lãi suất của nhà nước đưa ra quá thấp so với những chi phí mà tổ chức phải chi ra để triển khai sản phẩm thì tổ chức vi mô sẽ dễ gặp phải rủi ro phá sản, phải ngừng hoạt động
-rủi ro về an toàn vốn: bên cạnh việc triển khai các sản phẩm về tín dụng tổ chức vi mô còn triển khai các sản phẩm bảo hiểm. tuy nhiên đây là một sản phẩm đem lại rủi ro rất cao cho tổ chức. các sản phẩm bảo hiểm hầu như đều được khách hàng sử dụng để bảo vệ gia súc bảo vệ mùa màng. Nhưng những sản phẩm được bảo hiểm này thường mang tính thời vụ và dễ xảy ra các nguy cơ rủi ro. Khi xảy ra sự cố như mất mùa, gia súc bị chết thì thường là dây chuyền, rất nhiều khách hàng đều gặp phải khi đó các TCTCVM găp phải một rủi ro lớn đó là không có khả năng thu hồi vốn, bồi thướng quá cao làm tình hình tài chính của tổ chức gặp biến động lớn. mất an toàn về vốn cho các tổ chức
Biện pháp:+ Sản phẩm vốn vay: Cần thiết đa dạng hóa về kích cỡ vốn vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Sắp xếp khách hàng thành cụm nhỏ. Sau 3 tháng hoàn trả vốn chung, thành viên được phép vay thêm một loại vốn bất kỳ. Cón món
vay đều hoàn trả theo tuần. Các cụm sinh hoạt theo tháng để cập nhật thông tin và báo cáo tình trả nợ cá nhân.=> đảm bảo về an toàn tín dụng cho tổ chức
+ảo hiểm vi mô: Bảo hiểm vi mô được cung cấp cho các thành viên với mức phí nhất định theo tuần,cung cấp các kiến thức cần thiết nhằm hạn chế rủi ro về bảo hiểm xảy ra, kiểm soát chặt chẽ các khách hàng trong hoạt động sử dụng vốn
+Quản lý thông tin: theo dõi giám sát các thông tin của khách hàng và quá trình sử dụng vốn của khách hàng, tốt nhất là cho vay theo nhóm để các nhóm tự quản lý và giúp đỡ lẫn nhau khi đó vừa giảm bớt được chi phí hoạt động cho tổ chức vừa đem lại sự an toàn về vốn
+tổ chức tài chính vi mô cần cân bằng giữa hai mục tiêu: an toàn và sinh lời, tính toán các tỷ lệ an toàn và lợi nhuận ở mức phù hợp để tránh gặp phải rủi ro thanh khoản hay rủi ro hoạt động. Xem xét đánh giá cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trên các mặt: kỳ hạn, lãi suất, tính ổn định. Các tổ chức tài chính vi mô có thể chủ động sử dụng các công cụ tài chính phái sinh (nếu có) nhằm ngăn chặn rủi ro xảy ra như: các hợp đồng hoán đổi lãi suất, hoán đổi tín dụng, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai…Ngăn chặn nợ xấu phát sinh, chấm dứt việc cho vay mới đối với
khách hàng có lịch sử hoàn trả nợ xấu.
+Tự do hóa lãi suất: Lãi suất phải đủ bù đắp được chi phí hoạt động, tình trạng mất vốn, lạm phát. Những khoản vay nhỏ, rủi ro lớn được tính lãi suất cao hơn,đẩy mạnh
hoạt động tiền gửi trong nhân dân để bền vững hóa hoạt động của tổ chức. Tuy nhiên cần thực hiện biện pháp này một cách khéo léo. Nếu kiểm soát không tốt lại có thể tạo ra những làn sóng rút tiền và gửi tiền theo tâm lý đám đông, tạo vòng xoáy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và kế hoạch kinh doanh của các tổ chức tài chính vi mô .
+Xóa bỏ các chương trình và mô hình tín dụng trợ cấp; khuyến khích các mô hình tài chính vi mô thương mại. Tuy nhiên, cần thiết duy trì các chương trình và mô hình tín dụng trợ cấp dành cho đối tượng đặc biệt như học sinh sinh viên.

Câu 10: bình luận vấn đề đói cùng kiệt ở Việt Nam: VN ta là một nước có nèn kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, chịu qua 3 cuộc kháng chiếm dẫm máu, làm nền kinh tế việt nam gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. con đường phát triển của đảng của nhà nước luôn hướng đến mục tiêu là nâng cao đời sống của nhân dân, làm dân có cái ăn cái mặc, được ấm lo hạnh phúc. Để làm được điều đó thì việc đầu tiên chúng ta cần giải quyết đó là xóa đói giảm cùng kiệt cho đất nước.vì vậy mà nhà nước đặc biệt quan tâm vấn đề này trong phát triển đất nước vì chỉ khi dân hết cùng kiệt thì đất nước mới phát triển được. ở nước ta thì tỷ lệ đói cùng kiệt có xu hướng phân theo vùng, khu vực vùng núi và hải đảo đặc biệt khu vực nông thôn thì tỷ lệ hộ cùng kiệt tương đối cao hơn rất nhiều so với khu vực thành thị. Nguyên nhân cũng là do ở những khu vực này thì kinh tế chưa phát triển, thu nhập của người dân còn thấp .Trong những năm vừa qua, VN đã và đang rất chú trọng đến công tác giảm cùng kiệt cho đến nay chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu nhất định như:năm 2011 VN đạt được những thành công lớn trong việc giảm cùng kiệt do tăng trưởng kinh tế, cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống cho người dân thông qua chương trình xóa đói giảm nghèo. Những thành tựu đó đã tạo được sự dồng thuận trong xã hội và được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. vào năm 2011 với những bất ổn về kinh tế, lạm phát cao cộng với hậu quả nặng nề của bão lụt nên đời sống người dân kho khăn, thiếu thốn. đứng trước tình hình mới của đất nước chính phủ đã kịp thời đề ra các chủ trương với nền kinh tế như thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm sắp xếp lại đầu tư công , ưu tiên tập trung phát triển phúc lợi xã hội và kết quả là đem lại tỷ lệ giảm cùng kiệt vào cuối năm 2011 giảm trên 2% còn 14%.Trong những năm gần đây tỷ lệ hộ cùng kiệt đã giảm nhưng tuy nhiên có một số thực trạng xảy ra trong việc giảm cùng kiệt của nhà nước đó là tỷ lệ tái cùng kiệt trở lại và sự không muốn thoát cùng kiệt của một số hộ gia đình làm công tác xóa đói giảm cùng kiệt ở việt nam chưa thực sự hiệu quả.công tác hạn chế tái đói cùng kiệt là một trong những nội dung được chính phủ quan tâm. Bên cạnh giảm cùng kiệt thì chính phủ còn hỗ trợ đào tạo nghề tạo việc làm phù hợp cho các hộ cùng kiệt để đảm bẻo thoát cùng kiệt một cách bền vững. sau khi trở thành thanh viên của WTO, thì việc xóa đói giảm cùng kiệt ở nước ta lại đặt ra những vấn đề mới, chính phủ luôn phải nắm bắt đực tình hình đời sống của dân cư để đưa ra những chính sách phù hợp cho từng thời kỳ phát triển, phù hợp mục tiêu của nhà nước trong từng giai đoạ
Nguyên nhân dẫn đến đói cùng kiệt ở nước ta chủ yếu do trình độ dân trí cón thấp, không có khả năng sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả để cải thiện đời sống. nguyên nhân thứ hai chủ yếu do sự phân vùng trong các khu vực, các chính sách phap luật của nhà nước thì không kiểm soát đựơc đến tới các khu vực miền núi, làm tỷ lệ cùng kiệt ở khu vực nông thôn và vùng núi cao. Nguyên nhân mang tầm vĩ mô là do nước ta một nước nông nghiệp lạc hậu, các ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh còn hạn chế làm công việc triển khai chưa đem lại hiệu quả cao, tốn công sưc nhưng lợi nhuận không được là bao. Chính vì vậy mà để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm cùng kiệt thì nhà nước cần nắm rõ các nguyên nhân chủ đạo gây ra đói cùng kiệt để hạn chế từ các nguyên nhân mới thoát cùng kiệt một cách bền vững. trong giai đoạn năm 2011-2020 chính phủ tập trung ưu tiên các khu vực địa bàn khó khăn đó là các huyện nghèo, các xã nghèo, đặc biệt là khu vực miền núi. Thúc đẩy phát triển kinh tế để giảm sự chênh lệch giữa giàu cùng kiệt trong cả nước.
Xác định việc xóa đới giảm cùng kiệt là một công việc lâu dài bền bỉ, là trách nhiệm của các cấp các ngành. Toàn dân cả nước cùng chung tay xây dựng kinh tế để giảm tỷ lệ cùng kiệt đói trong cả nước cùng hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế đất nước một cách toàn diện nhất.
những biện pháp của Chính phủ trong tiến trình xóa đói giảm nghèo:
+ hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập:
1.Chính sách hỗ trợ việc làm: Thông qua khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, giao rừng và giao đất để trồng rừng sản xuất.Hộ gia đình nhận khoán chăm sóc, bảo vệ được hưởng tiền khoán chăm sóc, bảo vệ rừng .Hộ gia đình được giao rừng sản xuất và giao đất để trồng rừng sản xuất theo quy hoạch, được hưởng các chính sách theo quy định => tạo thêm thu nhập cho người nghèo.
  1. Chính sách hỗ trợ sản xuất: Bố trí kinh phí cho rà soát, xây dựng quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện cụ thể của từng huyện, xã, nhất là những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thường xuyên bị thiên tai Ngân sách nhà nước hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay tại ngân hàng thương mại nhà nước để phát triển sản xuất nông nghiệp, đầu tư cơ sở chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản. Đối với hộ không có điều kiện chăn nuôi mà có nhu cầu phát triển ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp tạo thu nhập được vay vốn tối đa 05 triệu đồng/hộ, với lãi suất 0% .Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh trên địa bàn huyện nghèo:Được hưởng các điều kiện thuận lợi và ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành của nhà nước.
+ chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí:
1.Chính sách giáo dục, đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí :Tăng cường dạy nghề gắn với tạo việc làm nâng cao trình độ dân trí của người cùng kiệt giúp người cùng kiệt biết ửu dụng vốn kinh doanh để nâng cao chất lượng cuộc sống.
2.Chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở: Tăng cường nguồn lực thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Đẩy mạnh công tác truyền thông, vận động kết hợp cung cấp các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình để nâng cao chất lượng dân số của các huyện nghèo.+chính sách. Cơ chế đầu tư cơ sở hạ tang ở cả thôn, bản xã và huyện: làm giảm mức chênh lệch phân vùng trong đất nước, làm giảm tỷ lệ cùng kiệt đói trong cả nước.
+ nâng cao vai trò của tổ chức tài chính vi mô với công tác xóa đói giảm nghèo:tạo điều kiện tốt nhất cho tổ chức này có thể thực hiện sản phẩm hỗ trợ người nghèo. Có các khung pháp lý phù hợp để có thể tạo điều kiện cho tổ chức hỗ trợ người nghèo

Câu 11: Bảo hiểm vi mô là gì? Trình bày các đặc điểm của bảo hiểm vi mô và nêu hiểu biết của bạn về bảo hiểm vi mô tại Việt Nam?
Bảo hiểm vi mô : là các sản phẩm bảo hiểm dành cho người có thu nhập thấp. Bảo hiểm vi mô là các sản phẩm phân bổ và giảm thiểu rủi ro liên quan đến chi phí, điều khoản, mức hỗ trợ và kênh phân phối được thiết kế một cách phù hợp cho thị trường có thu nhập thấp và thường bảo hiểm cho rất nhiều lĩnh vực, từ nhân thọ và chăm sóc sức khoẻ tới thời tiết, tài sản, mùa màng, gia súc và thiên tai. Sản phẩm vi mô phải đạt được 4 điều kiện:
+Sản phẩm phải phục vụ các nhóm người, các ngành kinh doanh, các khu vực yếu thế, dễ bị tổn thương: Bảo hiểm vi mô là các sản phẩm phân bổ và giảm thiểu rủi ro liên quan đến chi phí, điều khoản, mức hỗ trợ và kênh phân phối được thiết kế một cách phù hợp cho thị trường có thu nhập thấp và thường bảo hiểm cho rất nhiều lĩnh vực, từ nhân thọ và chăm sóc sức khoẻ tới thời tiết, tài sản, mùa màng, gia súc và thiên tai. chính vì thế nó phù hợp cho các nhóm người, các khu vực yếu thế, dễ bị tổn thương.
+ Chi phí thấp: vì đối tượng phục vụ của bảo hiểm vi mô là người có thu nhập thấp nên nó phải có chi phí thấp mới có sức hút đối với đối tượng này.
+ Thủ tục chi trả thuận tiện và đơn giản: người thu nhập thấp, người cùng kiệt thường ở những vùng đi lại không thuận tiện như miền núi, vùng nông thôn, vùng hẻo lánh, thủ tục chi trả thuận tiện và đơn giản giúp mọi người tiếp cận nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu nhanh chóng.
+Lãi suất từ sản phẩm tương đối thấp, xấp xỉ với chi phí đã bỏ ra: với mục đích giúp các gia đình nông thôn còn nhiều khó khăn thoát nghèo, nhằm góp phần thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm cùng kiệt và tạo ý thức tiết kiệm cho người dân
Đặc điểm của bảo hiểm vi mô: Các sản phẩm dịch vụ và đặc điểm của nó:
+ bảo hiểm nhân thọ: Dựa trên sự tự nguyện của người tham gia bảo hiểm./Có rất nhiều sản phẩm bảo hiểm khác nhau để bạn lựa chọn./Người tham gia bảo hiểm được bảo hiểm ngay lập tức với số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng /Được hưởng lãi chia thêm theo cam kết trên hợp đồng .
+bảo hiểm tài sản: Quyền tham gia bảo hiểm tài sản /Chỉ được phép tham gia bảo hiểm cho tài sản tối đa là giá trị của tài sản/Sô tiền chi trả của công ty bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm tài sản sẽ dựa trên nguyên tắc bồi thường/ Không được phép tham gia bảo hiểm trùng cho tài sản.
+ bảo hiểm y tế : Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn/Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ
Hiểu biết của bạn về bảo hiểm vi mô tại Việt Nam Ở nước ta hiện nay việc đẩy mạnh sản phẩm bảo hiểm vi mô hướng đến với người có thu nhập thấp cũng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ, vì nó hỗ trợ đáng kể cuộc sống người cùng kiệt Ở nước ta, bảo hiểm vi mô đã bắt đầu triển khai độc lập với các chương trình tài chính vi mô từ cuối thập niên 90. Năm 1998, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thông qua Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam đã tiến hành thử nghiệm bán bảo hiểm cho nông dân tại Nghệ An. Tuy nhiên, dự án này đã không mấy thành công do mức phí quá cao (100.000 đồng/tháng). Sau đó, mô hình này tiếp tục được triển khai ở Huế nhưng với mức phí thấp hơn nhiều (77.000 đồng/năm) và đã có kết quả tốt hơn. Và cho đến nay ở VN có các tổ chức bảo hiểm vi mô với quy mô hoạt động lớn đó là: CTCP Bảo Hiểm bưu điện Tổng CTCP BẢo Minh, Manulife VN… với 3 lĩnh vực hoạt động:
1, Về bảo hiểm tài sản, trách nhiệm: mặc dù bảo hiểm nông nghiệp đã triển khai gần 30 năm nay nhưng đến nay phạm vi triển khai vẫn mang tính “thử nghiệm” và có xu hướng ngày càng thu hẹp. Những nguyên nhân chính lý giải cho thực trạng này là:
(1) phần đông nông dân chưa có tập quán tham gia bảo hiểm;
(2) mức phí bảo hiểm đặt ra thường thấp do vậy không đảm bảo nguồn tài chính bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm;
(3) sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết, bệnh dịch, do vậy khi có thiên tai, bệnh dịch xảy ra, thiệt hại cho vật nuôi, cây trồng thường ở một diện rộng, mức độ thiệt hại lớn, số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường lớn gấp bội số phí bảo hiểm thu được hay quỹ dự phòng;
(4) chi phí để triển khai bảo hiểm nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong phí bảo hiểm thu được. Vì vậy, bảo hiểm nông nghiệp không đem lại hiệu quả kinh tế, thậm chí gây lỗ nặng, làm cho các doanh nghiệp bảo hiểm không mặn mà trong việc triển khai loại hình bảo hiểm này. Thời tiết lạnh rét làm hàng ngàn trâu, bò – “đầu cơ nghiệp” của người nông dân ở miền núi phía Bắc – bị tổn thất vào cuối năm 2008; dịch lợn dịch tai xanh, dịch cúm gia cầm trong năm 2008… là những ví dụ minh hoạ rõ nét về sự thiệt hại do thiên tai, bệnh dịch gây ra và sự cần thiết của việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp nói riêng và tài sản nói chung đối với người có thu nhập thấp. đê bảo hiểm NN được phổ biến hơn, thiết thực hơn ngày 1/3/2011 thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 315/QĐ-TTG về việc thực hiện thí điểm BHNN giai đoạn 2011-2013.2, bảo hiểm nhân thọ: đến nay mới chỉ có một số đối tượng hạn chế (cán bộ hưu trí, cho học sinh, sinh viên) được bảo hiểm và mức trách nhiệm bảo hiểm khá nhỏ. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (BHNT) cũng gần như chưa đến được với người có thu nhập thấp,chỉ có sản phẩm bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm con người kết hợp có mức phí bảo hiểm phù hợp với người có thu nhập thấp. ở Việt Nam cũng đã hình thành các quỹ bảo hiểm tương hỗ như quỹ cho vay tương hỗ TYM, chuyên cung cấp các khoản vay nhỏ cho phụ nữ cùng kiệt đồng thời cung cấp bảo hiểm tử vong cho người vay và các thành viên trong gia đình của họ. Đến nay những quỹ tương hỗ như TYM chưa phổ biến ở các địa phương. Nguyên nhân là do hoạt động của quỹ này cần có sự tài trợ, ủng hộ của các tổ chức và cá nhân, mức phí bảo hiểm không đủ để đảm bảo sự hoạt động bền vững của quỹ. 3, bảo hiểm y tế :Việc thực hiện bảo hiểm y tế cho người có thu nhập thấp, đặc biệt là người cùng kiệt được Nhà nước quan tâm trong mấy năm gần đây. Đến nay một bộ phận người cùng kiệt đã được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế, tuy nhiên đến nay còn một phận lớn người cùng kiệt nói chung và người có thu nhập thấp nói riêng chưa được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Bảo hiểm vi mô ở VN cần được phổ biến hơn nữa Với một tỷ lệ không nhỏ dân số có thu nhập thấp và trên 70% dân số sống ở nông thôn, việc thực hiện bảo hiểm vi mô cần được xem là thành tố quan trọng trong thực hiện chính sách an sinh xã hội cho người có thu nhập thấp cũng như trong hệ thống chính sách “xóa đói, giảm nghèo” của Việt Nam. cần làm cho độ phủ sóng của bảo hiểm vi mô ngày càng lan rộng hơn, đồng thời cần nâng cao kĩ năng tính phí bảo hiểm, kĩ năng quản lý điều hành, đảm bảo khả năng cung cấp dịch vụ bảo hiểm vi mô một cách lâu dài.

Câu 12: So sánh hình thức cho vay cá thể và cho vay theo nhóm của tổ chức tài chính vi mô? Theo bạn hiện nay tổ chức TCVM nên cho vay theo hình thức nào? Tại sao?
sánh hình thức cho vay cá thể và cho vay theo nhóm của tổ chức tài chính vi mô:
giống nhau:đều là hình thức tín dụng cho người nghèo. là những khoản vay mà các tổ chức TCVM cung cấp cho khách hàng, là những chính sách ưu đãi cho người cùng kiệt với mục đích là giup họ tham gia sản xuất hay tiến hành kinh doanh. Đều là những món tiền nhỏ cung cấp cho khách hàng có nhu cầu để sản xuất kinh doanh
khác nhau:
cho vay cá thểCho vay theo nhóm
Khái niệmCác tổ chức TCVM cung cấp các món tiền vay tới từng cá nhân trên cơ sở đánh giá năng lực của họ trong việc bảo đảm hoàn trả và một mức an toàn nào đócung cấp các món tiền vay cho một nhóm người có chung nguyện vọng muốn tiếp cận tới các dịch vụ tài chính
Phương phápKhách hàng là các cá thể làm việc trong khu vực phi chính thức cần vốn kinh doanh, món vay và các điều khoản dựa trên sự cẩn trọng của các cán bộ tín dụngVận dụng mô hình hiệp hội tín dụng và tiết kiệm để tạo tính linh hoạt về quy mô và điều khoản của món vay
Đặc điểm+ cấp tín dụng cho một cá nhân

+ đòi hỏi sự liên hệ một cách thường xuyên và gần gũi với khách hàng cá thể
+đòi hỏi sự thế chấp or bảo đảm bởi tài sản

+tiết kiệm bắt buộc thường không được yêu cầu

+ cá nhân
+ món vay được giải ngân tại văn phòng chi nhánh
+ sự kiểm soát một cách thường xuyên trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng nhằm đảm bảo khách hàng sử dụng đúng mục đích
+đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện bởi các nhân viên tín dụng đến từng cá nhân, đôi khi có sự thu phí
+ rủi ro xay ra khi cá nhận đó không có khả năng chi trả

+ chi phí giao dịch phát sinh cao thường cao
+ cấp tín dụng cho một nhóm người

+ko đòi hỏi sự liên hệ một cách thường xuyên với từng cá thể mà chỉ cần làm việc với trưởng nhóm
+ sư dụng sức ép của những người cùng nhóm như là tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo
+tiết kiệm bắt buộc phải có của các thành viên trong nhóm để dảm bảo khả năng trả nợ
+ việc cho vay dựa trên khả năng tài chính và sự chi trả thanh toán của cả nhóm
+ chuyển sự giám sát việc sử dụng vốn qua cho nhóm, nhóm có trách nhiệm giám các thành viên nhóm mình sử dụng vốn hiệu quả

+người trong nhóm cùng giúp đỡ nhau trong việc hỗ trợ sản xuất để đảm bảo nguồn vốn đạt hiệu quả, tăng tỷ lệ trả nợ của nhóm
+rủi ro xáy ra khi một vài thành viên của nhóm gặp khó khăn về hoàn trả dẫn đến sự sụp đổ của cả nhóm
+ chi phí thường được tiết kiệm như chi phí thẩm định tài sản đảm bảo, chi phí giám sát hđ kinh doanh


hiện nay tổ chức TCVM nên cho vay theo hình thức là cho vay theo nhóm vì:
+cho vay theo nhóm vận dụng mô hình hiệp hội tín dụng và tiết kiệm để tăng tính linh hoạt về quy mô và điều khoản của món vay và cho phép người vay tiếp cận nguồn vốn khi cần chứ không phải đợi đến lượt
+sử dụng sức ép của những người cùng nhóm như là sự thay thế cho tài sản thế chấp, thủ tụ đơn giản hơn không phải thẩm định về các tài sản thế chấp của từng thành viên
+ cho vay theo nhóm giảm đáng kể các chi phí giao dịch của tổ chức bằng việc giảm chi phí giao dịch, chi phí xem xét để cấp vốn, chi phí giám sát trong qua trình cho vay. Tiết kiệm một khoản chi phí lớn cho tổ chức
+ cho vay theo nhóm tăng tỷ lệ hoàn trả: sức ép của những thành viên khác trong nhóm có thể có tác dụng như sự khuyến khích hoàn trả vì các thành viên không muốn bỏ rơi các thành viên khác trong nhóm hay không muốn phải chịu bất kỳ một hình phạt nào do nhóm đưa ra vì sự trả chậm. trong một số trường hợp khi nhóm nhận thấy sự chậm trả của thành viên đó là hợp pháp thì các thành viên còn lại sãn sàng giúp đỡ cho đên khi khó khăn được giải quyết
+ tổ chức tài chính có thể đạt được một số lượng lớn khách hàng ngay cả trong trường hợp bất cân xứng thông qua chính sự lựa của các thanh viên nhóm. Vì sự hiểu biết của các thanh viên trong cùng một cộng đồng thường tốt hơn về việc cho vay ai là tốt, cho ai vay sẽ không gặp rủi ro. Cũng do khi cho các thanh viên vào nhóm họ thường quan tâm tới xem xét ai được chấp nhận vào nhóm vì điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tiếp cận tài chính của họ

Câu 13: Bảo hiểm vi mô: là các sản phẩm bảo hiểm dành cho người có thu nhập thấp. Bảo hiểm vi mô là các sản phẩm phân bổ và giảm thiểu rủi ro liên quan đến chi phí, điều khoản, mức hỗ trợ và kênh phân phối được thiết kế một cách phù hợp cho thị trường có thu nhập thấp và thường bảo hiểm cho rất nhiều lĩnh vực, từ nhân thọ và chăm sóc sức khoẻ tới thời tiết, tài sản, mùa màng, gia súc và thiên tai. . Sản phẩm vi mô phải đạt được 4 điều kiện: +Sản phẩm phải phục vụ các nhóm người, các ngành kinh doanh, các khu vực yếu thế, dễ bị tổn thương: Bảo hiểm vi mô là các sản phẩm phân bổ và giảm thiểu rủi ro liên quan đến chi phí, điều khoản, mức hỗ trợ và kênh phân phối được thiết kế một cách phù hợp cho thị trường có thu nhập thấp và thường bảo hiểm cho rất nhiều lĩnh vực, từ nhân thọ và chăm sóc sức khoẻ tới thời tiết, tài sản, mùa màng, gia súc và thiên tai. chính vì thế nó phù hợp cho các nhóm người, các khu vực yếu thế, dễ bị tổn thương. + Chi phí thấp: vì đối tượng phục vụ của bảo hiểm vi mô là người có thu nhập thấp nên nó phải có chi phí thấp mới có sức hút đối với đối tượng này. + Thủ tục chi trả thuận tiện và đơn giản: người thu nhập thấp, người cùng kiệt thường ở những vùng đi lại không thuận tiện như miền núi, vùng nông thôn, vùng hẻo lánh, thủ tục chi trả thuận tiện và đơn giản giúp mọi người tiếp cận nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu nhanh chóng. +Lãi suất từ sản phẩm tương đối thấp, xấp xỉ với chi phí đã bỏ ra: với mục đích giúp các gia đình nông thôn còn nhiều khó khăn thoát nghèo, nhằm góp phần thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm cùng kiệt và tạo ý thức tiết kiệm cho người dân
Khó khăn trong việc triển khai bảo hiểm vi mô:
+nhận thức của người cùng kiệt về bảo hiểm còn hạn chế: bảo hiểm vi mô là một lĩnh vực mới với người cùng kiệt chính vi vậy mà các kiến thức bảo hiểm của người cùng kiệt về sản phẩm này còn rất hạn chế. Nên khá nhiều khách hàng là những người có thu nhập thấp cảm giác không “thoải mái” khi tiếp xúc với loại sản phẩm bảo hiểm mới lạ này.
+người cùng kiệt thường sống ở vùng sâu vùng xa nên khó tiếp cận:
+chi phí triển khai bảo hiểm vi mô thường lớn hơn đối với sản phẩm bảo hiểm thông thường: Trước hết là việc xây dựng mô hình thu phí bảo hiểm sao cho hiệu quả, đơn giản để duy trì và phát triển loại hình bảo hiểm này là một trở ngại lớn, bởi phải tính toán chi phí hợp lý cho người đi thu phí, cũng như trở ngại trong việc thu phí từ những người có thu nhập mang tính thời vụ( do đối tượng bảo hiểm là người nông dân là chủ yếu). Đây là mâu thuẫn chủ yếu mà các DNBH vấp phải khi triển khai sản phẩm này. Ngoài ra còn chưa kể tới việc triển khai sản phẩm này cũng sẽ làm thay đổi phần nào đó chiến lược kinh doanh của các DNBH, gây ra những xáo trộn trong hoạt động KD.
+người dân không đủ đóng phí bảo hiểm: thu nhập của người cùng kiệt thường rất thấp. khả năng đáp ứng các nhu cầu chi tiêu còn không đủ vì vậy mà việc bỏ ra một khoản tiền đóng phí bảo hiểm là một khó khăn vói người nghèo.
+ khó thu phí từ người tham gia bảo hiểm ( đặc biệt là những người lao động theo thời vụ): lựa chọn kênh phân phối sản phẩm một cách tối ưu, do bảo hiểm vi mô cung cấp cho người có thu nhập thấp nên phí bảo hiểm thấp. Vì vậy, tìm ra một kênh phân phối thực sự hiệu quả để bán sản phẩm bảo hiểm vi mô tới tận tay người dân nông thôn đang là bài toán khó cho các DNBH. Hiện nay việc các DNBH bán sản phẩm bảo hiểm vi mô không thông qua đại lý, mà chỉ thông qua các hội, đoàn thể nên công tác thu phí hàng tháng cũng là một vấn đề nan giải. Bởi lẽ, địa bàn nông thôn không giống như thành phố, người dân sống ở các địa hình khác nhau nên việc tiếp cận được họ để giới thiệu sản phẩm và ký hợp đồng đã khó, mà thu tiền phí lại càng khó khăn hơn.
+ rủi ro nhiều hơn( đặc biệt là bảo hiểm nông nghiệp) : đối tượng chủ yếu của bảo hiểm vi mô là bảo hiểm cho các sản phẩm nông nghiệp, mà sản phẩn này mang tính thời vụ rất cao. Khi rủi ro thường lây rất cao. Khi đó thì không phải một người cần bảo hiểm mà là rất nhiều người khi đó rủi ro với tổ chức cung cấp bảo hiểm là rất lớn. mức phí do rủi ro cao hơn rất nhiều so với tổng mức phí thu được.
Thứ 2 người cùng kiệt thì sức khỏe không đảm bảo do thiếu về cơ sở vật chất vì vậy mà các tổ chức vi mô cũng gặp rủi ro về sức khỏe của người lao động là rất lớn
Giải pháp để có thể thực hiện được sản phẩm này trong thực tế:
+Sản phẩm bảo hiểm thiết kế cần đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức và trình độ của người có thu nhập thấp. Thủ tục tham gia bảo hiểm và bồi thường cũng phải đơn giản, nhanh chóng. Trước mắt các DNBH nên triển khai ở một số lĩnh vực thiết thực và có nhu cầu lớn đối với người có thu nhập thấp. Các DN bảo hiểm cũng có thể bị lỗ nhưng ban đầu sẽ giúp người dân quen với tập quán mua bảo hiểm.
+Quản lý chi phí hoạt động thấp, đặc biệt cần sử dụng hệ thống phân phối, hệ thống thanh toán sẵn có để tiết kiệm chi phí hoạt động. Mô hình triển khai phù hợp, cần thực hiện quản lý chặt chẽ, nâng dần tính chuyên nghiệp trong hoạt động nhằm đảm bảo sự hoạt động bền vững đồng thời cần có khung pháp lý về hoạt động bảo hiểm cho người có thu nhập thấp.Bên cạnh đó các DNBH cũng cần thực hiện tốt công việc truyền thông,quảng bá sản phẩm bảo hiểm vi mô.
+Việc bảo hiểm cho người có thu nhập thấp có thể được thực hiện tốt hơn khi được tài trợ từ các tổ chức và cá nhân, lồng ghép với các chính sách của Nhà nước (như cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay ưu đãi, đào tạo nghề…), phối hợp với sự hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội.
+Cần huy động được tất cả các bên có liên quan cùng hợp tác với nhau triển khai bảo hiểm vi mô. Quan hệ đối tác chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính, các tổ chức phi chính phủ, các nhóm tự lực tại địa phương và các cơ quan điều tiết đem lại rất nhiều lợi ích trong ngành công nghiệp bảo hiểm vi mô
+Ngoài việc xác định mô hình triển khai phù hợp, để bảo hiểm cho người có thu nhập thấp hoạt động hiệu quả, cần xây dựng một khung pháp lý đồng bộ và phù hợp, đặc biệt là trong truyền thông, giám sát quỹ dự phòng, biên khả năng thanh toán và đầu tư. Bên cạnh đó, Hiệp hội Bảo hiểm và các DNBH cần trợ giúp tích cực về mặt nghiệp vụ và công nghệ quản lý trong hoạt động bảo hiểm cho người thu nhập thấp.

Câu 14: sản phẩm cho vay theo nhóm: Cho vay theo nhóm liên quan tới việc hình thành nhom người có chung nguyện vọng muốn tiếp cận tới các dịch vụ tài chính. Phương pháp này vận dụng mô hình hiệp hội tín dụng và tiết kiệm để tạo tính linh hoạt về quy mô và điều khoản của nhóm vay và nhìn chung cho phép người vay tiếp cận nguồn vốn khi cần chứ không phải đợi đến lươt.
Đặc điểm:
+ phương pháp này sử dụng sức ép của những người cùng nhóm như là sự thay thế cho tài sản thế chấp( người nghèo, người không đáp ứng được khả năng thế chấp). sự đảm bảo của nhóm được thiết lập như sự thay thế cho sự thế chấp, nếu sự trả chậm của một thành viên thì sẽ tương đương với việc sự cho vay đối với các thành viên khác sẽ bị đình chỉ cho đến khi nào món vay được hoàn trả.
+pp này giảm đáng kể chi phí giao dịch của tổ chức bằng cách chuyển chi phí xem xét và giám sát các khoản tín dụng cho nhóm.nhóm sẽ lựa chọn rất cẩn thận những ai được chấp nhận vào nhóm của họ bởi nếu không lựa chọn tốt thì sẽ đe dọa khả năng tiếp cận tín dụng của chính họ, việc làm việc từ nhóm vs tổ chức cũng giảm đi khá nhiều, chi phí tù đó cũng được giảm.
tuy nhiên nó cũng đem lại những rủi ro lớn cho tổ chức TCVM vì nếu nhưu một vài thành viên trong nhóm gặp khó khăn không hoàn trả được thì toàn bộ nhóm sẽ bị sụp đổ dẫn tới tác động dây chuyền.
ví dụ cụ thể: cho vay theo nhóm tương hô grameen: mô hình này đựơc phát triển bởi ngân hàng grameen nhằm phục vụ những phụ nữ nông thôn không ruộng đât, mong muốn tài trợ cho các hoạt động tạo thu nhấp.
hình thức: nhóm gồm 5 thành viên không có quan hệ hôn nhân hay huyết thống được tụ thành lập và tập trung thành các trung tâm gồm khoảng 8 nhóm . các thành viên bát buộc phải tham gia các buổi sinh hoạt hàng tuần và đóng góp tiết kiệm đóng góp quỹ nhóm và đóng tiền bảo hiểm. đóng góp tiết kiệm phải được thực hiện trước khi nhận đực món vay từ 4-5 tuấn và phải tiếp diễn trong thời gian vay vốn. quỹ nhóm được tự quản và cho vay tới các thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm tự bảo lãnh món vay của nhau và chịu trách nhiêm liên đới trước pháp luật về việc hoàn trả nợ của các thành viên khác trong nhóm. Bất cứ thành viên nào cũng không được vaythêm nếu tất cả các thành viên không trả nợ đúng hạn.. lần đầu tiên có 2 thành viên được vay, sự hoàn trả tốt thì hai thành viên tiếp theo sẽ được giải ngân ,sự cho các thành viên còn lại phụ thuộc vào sự hoàn trả của thành viên nhận tiền vay trước
 
Top