Download miễn phí Triển vọng kinh tế Việt Nam trong khối Asean vào những năm đầu của thế kỷ 21





Khi hàng rào thuế quan hạ xuống thì việc cạnh tranh xuất khẩu sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Việt Nam sẽ cần có những chính sách đặc biệt đối với ngoại thương: ngoài các biện pháp hiện nay như miễn thuế, cho vay với lãi suất thấp, Việt Nam cần có một chính sách đặc biệt khuyến khích phát triển khu vực tư doanh. Vì trong thời kỳ kế hoạch tập trung, khu vực quốc doanh được độc quyền về ngoại thương, nên nhiều xí nghiệp không hiệu quả vẫn tồn tại. Từ khi chuyển qua cơ chế thị trường, sự yếu kém ấy lộ ra rõ rệt bằng hình thức thua lỗ triền miên. Nên chính sách của Việt Nam là kiên quyết giải thể, đồng thời tạo điều kiện cho khu vực ngoài quốc doanh được tham gia thị trường xuất nhập khẩu.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG KHỐI ASEAN VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA THẾ KỶ 21
LÊ HOÀNG VĂN
Giảng viên Khoa Địa lý, trường ĐHKHXH & NV
Các quốc gia Đông Nam Á nằm ở vùng đất tận cùng về phía Đông Nam của lục địa Châu Á. Đây là một khu vực địa lý thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, chịu sự chi phối mạnh mẽ của gió mùa và còn là một vùng kinh tế năng động bao gồm 10 quốc gia với diện tích gần 4.500.000 km2, gần nửa tỷ dân cư đang sinh sống.
Khu vực địa lý này bao gồm 2 phần chính:
-Phần gắn liền với lục địa, nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ, bao gồm 5 nước: Myanmar, Laos, Campuchia, Thailand và Việt Nam.
-Phần quần đảo gồm 5 nước: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore.
-Dựa vào tinh thần và các nguyên tắc Hiến chương Liên Hiệp quốc cũng như 10 nguyên tắc đã thông qua tại Hội nghị các nước Á Phi ở Bandung, ngày 8/8/1967 tại Bangkok, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọt tắt là ASEAN theo tiếng Anh : Association of South East Asian Nations) được tuyên bố chính thức ra đời. Lúc đó có 5 thành viên sáng lập là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand.
Ngày 24/2/1976 tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất, năm thành viên nói trên đã ký hiệp ước Bali gồm 5 chương và 20 điều, nêu ra 6 nguyên tắc cơ bản của sự thân thiện và hợp tác là:
Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của các quốc gia.
Quyền của mỗi quốc gia được tồn tại không có sự can thiệp lật đổ và áp bức của bên ngoài.
Không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng biện pháp hoà bình.
Từ bỏ việc đe doạ hay sử dụng vũ lực.
Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
Đặc biệt vấn đề hợp tác là nội dung quan trọng của hiệp ước, bao gồm đền 9 điều trong tổng số 20 điều như: “Các bên tham gia hiệp ước sẽ xúc tiến hợp tác tích cực trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, kỹ thuật, khoa học và hành chánh, cũng như trong các vấn đề lý tưởng chung và nguyện vọng về hoà bình quốc tế, sự ổn định trong khu vực và tất cả các vấn đề khác mà các bên cùng quan tâm”.
Lần lượt sau đó ngày 8/1/1984 Brunei Darusalam được kết nạp là thành viên thứ 6 và đến ngày 28/7/1995 Việt Nam đã chính thức được kết nạp làm thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tiếp đến vào năm 1997 Lào và Miến Điện được kết nạp vào khối ASEAN và cuối cùng Campuchia cũng được kết nạp vào khối để tạo ra một khu vực kinh tế của Đông Nam Á. Việc có mặt của Việt Nam đã chứng minh một thực tế, dù có sự khác biệt về thể chế chính trị của các nước cùng đứng chung một tổ chức thì đó không phải là một trở ngại cho sự hợp tác về mọi mặt để cùng phát triển kinh tế.
Tình trạng tổng quát hiện nay của ASEAN như sau:
Theo bảng thống kê kinh tế do Ngân hàng thế giới cung cấp, các chỉ số kinh tế của ASEAN năm 1994:
Quốc gia
Diện tích (km2)
Dân số (triệu)
GNP/GDP
(đầu người)
Nhập
(triệu USD)
Xuất
(triệu USD)
Brunei
6.769
0,3
7.500/4.667
1.699
2.301
Indonesia
907.500
190,7
780/818
35.132
39.497
Malaysia
329.758
19,0
3.230/3.678
59.511
58.660
Philippines
300.440
66,5
887/856
22.638
13.483
Singapore
625
3,1
8.025/19.677
102.220
96.292
Thailand
513.115
63,0
2.348/2.348
54.366
45.062
Vietnam
326.694
72,5
182/193
5.826
4.054
Qua đó cùng với việc tìm hiểu kinh tế của từng nước trong khối ASEAN, chúng ta thấy Việt Nam có những đặc điểm như sau:
-Trình độ công nghệ (kỹ thuật) còn lạc hậu, trang thiết bị thuộc loại cũ 20 năm hay 50 năm trước, lại thường chưa hoạt động hết công suất (50%) nên sản phẩm có chất lượng thấp, giá thành cao.
-Lương công nhân tương đối thấp, nhưng do năng suất lao động thấp, nên cơ cấu trong giá thành lại cao.
-Chúng ta chưa phát hiện hết ngành chủ lực nên chưa đưa ra một kế hoạch chủ động. Nguyên nhân là do chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, khu vực ngoài quốc doanh mở rộng nhiều ngành mới xuất hiện trong khi nhiều xí nghiệp quốc doanh cũ bị ngưng hoạt động.
-Cơ sở hạ tầng như đường sá, điện nước cũng như giáo dục, y tế, ngân hàng đều còn thấp do thiếu tiền đầu tư.
-Thủ tục hành chánh còn nặng nề vì khi chuyển qua cơ chế thị trường, chúng ta còn thiếu một cơ sở pháp luật hoàn chỉnh, trình độ cán bộ quản lý chưa đạt yêu cầu.
Nhưng Việt Nam cũng có những lợi thế sau:
-Vị trí địa lý thuận lợi nằm trên trục giao thông quốc tế, tiếp giáp với biển Đông 3.260 km và là cửa ngõ thông ra biển Đông của Lào và Campuchia.
-Tài nguyên thiên nhiên phong phú.
-Dân số đông, đứng hàng thứ 2 trong khối ASEAN (chỉ sau Indonesia) nên vừa là nguồn cung cấp thị trường lao động mà còn là thị trường tiêu thụ hàng tiêu dùng lớn.
-Tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao trong nhiều năm qua. Và nơi nào đó tốc độ tăng trưởng nhanh thì dễ thu hút đầu tư nước ngoài hơn.
Do đó khi gia nhập ASEAN, công việc đầu tiên của Việt Nam là hoà nhập vào khu vực tự do mậu dịch của ASEAN (Asean Free Trade Area –AFTA) mà cụ thể là bớt hàng rào thuế quan cũng như giảm bớt các biện pháp phi quan thuế có mục tiêu hạn chế ngoại thương.
Từ đó sẽ xuất hiện hai vấn đề: khối lượng xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ thay đổi như thế nào đối với khu vực ASEAN? Và hậu quả đối với ngân sách quốc gia như thế nào?
Về ngoại thương, hiện nay giá trị nhập từ ASEAN chiếm khoảng 32% và xuất khoảng 17,5% sang ASEAN, trong tổng số xuất nhập khẩu của Việt Nam. Với việc thành lập AFTA, tỷ lệ này có thể tăng lên. Nếu so sánh với cơ cấu mặt hàng thì Việt Nam nhập nhiều hàng sơ cấp, trong khi các nước ASEAN khác nhập nhiều trang thiết bị. Về mặt hàng xuất khẩu thì tương đồng: phần lớn là nguyên liệu và hàng hoá sơ chế. Theo qui luật phát triển kinh tế, Việt Nam sẽ phải công nghiệp hoá để tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp tăng lên.
Còn trong cán cân thương mại, xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN chiếm khoảng ¼ kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong khi nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm khoảng 1/3 kim ngạch nhập khẩu. Nói khác hơn Việt Nam đang ở vào thế nhập siêu. Có tới 2/3 doanh số xuất nhập của ta với ASEAN được thực hiện thông qua Singapore. Vì Singapore là điểm trung chuyển và là nơi có đến 98% mặt hàng được miễn thuế hoàn toàn. Đối với các nước ASEAN khác, chủ yếu là xuất khẩu nông sản như ta, hàng nông sản được xếp vào các danh mục mặt hàng nhạy cảm chưa phải cắt giảm thuế. Do đó giá cả chưa phải là yếu tố cạnh tranh của hàng xuất nhập khẩu Việt Nam trên thị trường ASEAN mà còn là nơi thực tập tốt nhất cho sự hội nhập mậu dịch đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong 10 năm tới. Các yếu tố cạnh tranh khác như chất lượng, mẫu mã, chủng loại sẽ có giá trị quyết định hơn trong nội bộ AFTA, và có thể dẫn đến những thay đổi trong những luồng bán buôn giữa các nước ASEAN và các nước khác.
Để công nghiệp hoá, Việt Nam phải giải quyết 2 vấn đề: nguồn vốn và trình độ kỹ thuật. Về nguồn vốn, từ khi chuyển qua kinh tế nhiều thành phần, đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã tăng lên rất nhanh so với khu vực quốc doanh. M
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top