g4jhn_v3d3m_9x

New Member
Download Đề tài Đời sống tinh thần công nhân nữ nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh

Download miễn phí Đề tài Đời sống tinh thần công nhân nữ nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh





Qua những cuộc khảo sát,nghiên cứu cho thấy rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này song nguyên nhân chủ yếu vẫn là do cái nghèo, cái đói đang diễn ra ngay trên quê hương của họ: “theo các tính toán hiện nay ngày công lao động nông thôn chỉ đạt trên dưới 10.000 đồng/ngày và nếu chỉ thâm canh cây lúa thì với số diện tích,năng xuất như hiện nay,các hộ gia đình nông dân chỉ có thể đạt được tổng thu nhập khoảng từ 15-20 kg thóc/người/tháng,tương đương khoảng 30-40đồng/người/tháng”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc “Lao động nữ di cư tự do nông thôn- thành thị”,NXB Phụ Nữ,Hà Nội- 2000).Đấy là chưa kể những năm mất mùa do lữ lụt hạn hán gây ra.
Bước vào thành phố với hai bàn tay trắng , họ muốn có được một công việc để ổn định cuộc sống của bản thân và hi vọng sẽ có chút tiền dư giả để nuôi sống gia đình.Nhưng thực tế nghiệt ngã không cho họ thực hiện được những ước mơ giản dị đó.Đời sống bấp bênh, công việc thì không ổn định và nặng nhọc, vất vả với mức thu nhập không đủ để trang trải chi tiêu cho cuộc sống của bản thân.Bởi thu nhập của họ thấp trong khi giá cả thì leo thang (mức lạm phát 3 tháng đầu năm 2008 là 9.19%-một con số quá cao trong khi khi mức lương tăng trung bình của công nhân là 10%)(nguồn báo Lao Động số 70 ngày 28/3/2008) khiến cho họ như đang đứng trên một biển lửa.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

y tập trung các khu chế xuất và các khu công nghiệp tập trung.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng di dân vào thành phố Hồ Chí Minh.Nhưng nổi bật lên với ba nguyên nhân chính:đoàn tụ gia đình(48,30%),kiếm việc làm(25,33%),các lý do khác như người nước ngoài về…(26,37%)(Nguyễn Văn Tài “Di dân tự do nông thôn-thành thị tại TPHCM”)
Điều tra di dân cho thấy đa số người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh không có hộ khẩu thường trú tại đây,chủ yếu là tạm trú ngắn hạn hay không có giấy tạm trú.Xét về trình độ và chuyên môn kĩ thuật thì có 27,2% người có trình độ cấp 1,trình độ cấp 2 là 38,8%,trình độ cấp 3 trở lên là 34%.(Nguyễn Văn Tài “Di dân tự do nông thôn –thành thị tại TPHCM”)
Với trình độ khác nhau thì sự phân công lao động cũng khác nhau,chỉ có 8,82% (2)lao dộng làm việc tại khu vực quốc doanh và nhà nước,còn lại chủ yếu làm việc tại các khu vực ngoài quốc doanh(kinh tế cá thể,tư thân…).Nhìn chung thì hầu hết lao động nhập cư có việc làm không ổn định,đồng lương thấp ma công việc lại hết sức vất vả.
Một điều đáng báo động là điều kiện sinh hoạt của lao động nhập cư hết sức khó khăn.do không có hộ khẩu nên việc tìm nhà rất khó khăn.Để tìm được một nơi cư trú là một cuộc hành trình hết sức gian nan,các phòng trọ tại thành phố hầu như không con trống,giá cả đắt đỏ,kết cấu xây dựng không thuận lợi,nóng bức,chật chội,ẩm thấp là đặc điểm chung của các phòng trọ.Một bộ phận lớn lao động phải trú ngụ ngay cạnh những bãi rác,nghĩa địa,vùng lầy lội…
Trong điều kiện cư trú như thế này thì chất lượng cuộc sống không lấy gì làm khả quan cho lắm,sức khỏe người lao động bị giảm sút nghiêm trọng,thiếu nước sinh hoạt,nguồn điện và những nhu cầu thiết yếu khác cho cuộc sống hằng ngày.
Nhìn một cách tổng quan thì qua trình di dân làm ảnh hưởng tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội mà trước tiên là cuộc sống của chính họ.đây là vấn đề mà các nhà hoạt động xã hội,các cơ quan lành đạo cần quan tâm hơn nữa tới dân nhập cư,giúp họ có cuộc sống ổn định và hạn chế bớt áp lực cho thành phố về nạn di dân.
(1),(2)(Theo Nguyễn Văn Taì và CTV “Di dân tự do nông thôn –thành thị tại TPHCM”
2. Thực trạng đời sống của nữ công nhân nhập cư tại thành phố Hồ Chí minh:
2.1 Thực trạng:
Đi khắp các ngả đường của tại TP.Hồ Chí Minh, ở đâu ta cũng bắt gặp hình ảnh của những người lao động nữ đang phải lăn lộn ở những loại hình công việc khác nhau giữa sự ồn ào, ngột ngạt của bầu không khí đất Sài Gòn.Ở đó thấp thoáng bóng dáng của những người lao động nữ nhập cư: “Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số 1999,trong số 2.001.409 người trên 5 tuổi đã di cư trong năm năm qua là nữ”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc: “Lao động nữ di cư tự do nông thôn- thành thị”
Người phụ nữ thường gắn bó với các công việc chăm lo gia đình, gắn bó với quê hương và hầu như có mức lương ổn định.Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là :Tại sao họ phải rời bỏ gia đình, làng quê để lên các thành phố để kiếm việc?
Qua những cuộc khảo sát,nghiên cứu cho thấy rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này song nguyên nhân chủ yếu vẫn là do cái nghèo, cái đói đang diễn ra ngay trên quê hương của họ: “theo các tính toán hiện nay ngày công lao động nông thôn chỉ đạt trên dưới 10.000 đồng/ngày và nếu chỉ thâm canh cây lúa thì với số diện tích,năng xuất như hiện nay,các hộ gia đình nông dân chỉ có thể đạt được tổng thu nhập khoảng từ 15-20 kg thóc/người/tháng,tương đương khoảng 30-40đồng/người/tháng”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc “Lao động nữ di cư tự do nông thôn- thành thị”,NXB Phụ Nữ,Hà Nội- 2000).Đấy là chưa kể những năm mất mùa do lữ lụt hạn hán gây ra.
Bước vào thành phố với hai bàn tay trắng , họ muốn có được một công việc để ổn định cuộc sống của bản thân và hi vọng sẽ có chút tiền dư giả để nuôi sống gia đình.Nhưng thực tế nghiệt ngã không cho họ thực hiện được những ước mơ giản dị đó.Đời sống bấp bênh, công việc thì không ổn định và nặng nhọc, vất vả với mức thu nhập không đủ để trang trải chi tiêu cho cuộc sống của bản thân.Bởi thu nhập của họ thấp trong khi giá cả thì leo thang (mức lạm phát 3 tháng đầu năm 2008 là 9.19%-một con số quá cao trong khi khi mức lương tăng trung bình của công nhân là 10%)(nguồn báo Lao Động số 70 ngày 28/3/2008) khiến cho họ như đang đứng trên một biển lửa.
Chỗ ở là điều kiện tối thiểu khi bước vào thành phố Hồ Chí Minh.Để có thể kiếm được việc làm thì điều trước tiên là phải kiếm được một chỗ để trú ngụ.Đối với lao động nữ nhập cư, chi tiêu của họ dung để thuê nhà trọ là rẻ nhằm phù hợp với đồng lương eo hẹp.Nhưng đồng nghĩa với cái “rẻ” ấy là những phòng trọ lụp xụp, nóng bức, chật chội.Trong bài “tết lên bãi rác”của Thảo Sương, đăng trên báo phụ nữ TP.Hồ Chí Minh,ngày 20/2/1999 viết: “Dân tạm trú làm rác ở đây sống trong những mái nhà tạm bợ,tối tăm,lụp xụp.Có đến hàng trăm căn hộ như vậy xung quanh bãi rác”.Mô tả lại nơi tạm trú,Khuất Huyền viết:”Một căn phòng mái tôn 16m2 mà chứa 24 người,không giường chỉ manh chiếu sờn đã cũ nát được trải trên nền gạch hay cái giát giường cũ nếu ở nơi ẩm thấp.Bên ngoài hành lang là công trình phụ được quây tạm bằng tấm cót ép meo mốc, cách đó 2m là khu nhà bếp tuềnh toàng, nhưng có 3,4 cái bếp dầu ,vài ba rổ đựng bát đĩa cùng chai lọ lủng củng bụi đã phủ mờ và mạng nhện chăng khắp.”(Khuất Huyền,phụ nữ Việt Nam-số 5,6/12/1999)
Tuy sống trong những căn nhà này nhưng một số chị em vẫn thấy vui vì mình còn có chỗ để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng.Bên cạnh đó có rất nhiều chị em phải chịu cảnh màn trời chiếu đất,trong số họ, phần lớn là những người muốn ra thành phố tìm việc không có thu nhập “Họ là những người mới ra thành phố hay chưa có việc làm,hay chưa có người thuê;tiền mang theo thì hết ,tiền thu nhập mới chưa có;họ không quen biết ai,nên đành phải sống vật vã nơi đầu đường góc phố,chịu nắng, mưa, sương, gió,đầy đọa tấm thân mình”(Hà thị Phương Tiên-Hà Quang ngọc “Lao động nữ di cư tự do nông thôn-thành thị”,NXB Phụ nữ Hà Nội-2000)
Công việc với tính chất bấp bênh nên mức thu nhập mà họ nhận được cũng không ổn định.Và mức thu nhập mà họ nhận được còn tùy thuộc vào từng loại công việc. “thu nhập bình quân tháng của người di cư(957.000đ)thấp hơn so với người không di cư (1.212.000đ) khoảng 21%.Người di cư là nam(thu nhập bình quân tháng 1.105.000đ) kiếm được nhiều hơn nữ(839.000đ) (Tổng Cục Thống Kê “ Điều tra di cư Việt nam 2004”,Hà Nội,Tháng 11-2006).Sự chênh lệch giữa thu nhập của người nhập cư và người không di cư cũng không hề nhỏ,điều này cho thấy rằng lao động nhập cư gặp nhiều khó khăn hơn lao động không nhập cư về thu nhập,trong khi đó họ phai trang trải những khoản chi phí mà lao động không nhập cư không phải lo nghĩ đến.Sự chênh lệch giữa thu nhập bình quân của lao động nam và nữ nhập cư cũn...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Lễ hội Gò Tháp trong đời sống tinh thần của người dân tỉnh Đồng Tháp Văn hóa, Xã hội 0
C Vai trò, ý nghĩa của báo chí nói chung và báo Tết nói riêng trong đời sống văn hoá tinh thần Công nghệ thông tin 2
R Giáo an tích hợp liên môn lịch sử 6 bài 13 đời sống vật chất và tinh thần của cư dân văn lang Văn học 0
T Đời sống văn hóa tinh thần ở thôn làng ngoại thành Hà Nội hiện nay Luận văn Sư phạm 0
D Nguồn gốc, đặc điểm của đạo Cao Đài, ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh Văn hóa, Xã hội 0
H Tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ (nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Văn hóa, Xã hội 0
H Ảnh hưởng của Phật giáo Tiểu thừa đối với đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào Khơ Me Tây Nam Bộ Kinh tế chính trị 0
H Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần ở huyện An Dương - Hải Phòng hiện nay Kinh tế chính trị 0
O Đời sống tinh thần gia đình người Công giáo ở đồng bằng sông Hồng hiện nay Văn hóa, Xã hội 0
N Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ mẫu đến đời sống văn hóa tinh thần người dân ở Hải Phòng hiện nay Văn hóa, Xã hội 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top