nhocxinh_trasua

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Hạn chế, bất cập và hướng hoàn thiện trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người
MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI 2
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam 2
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp 3
3. Bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã 3
4. Bắt người chưa thành niên 3
II. HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA TTHS VỀ BẮT NGƯỜI. 3
1. Hạn chế trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người 3
2. Vướng mắc bất cập trong quy định của BLTTHS về bắt người 3
III. HƯỚNG HOÀN THIỆN 3
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO 3











A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắt người là một trong nhữn biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI, BLTTHS năm 2003. Việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan sai có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc bắt một số “đối tượng đặc biệt” về chính trị ở trong nước và các đối tượng là người nước ngoài còn ảnh hưởng đến chính sách đối nội và quan hệ đối ngoại của Nhà nước ta. Để làm rõ vấn đề này tui đã chọn đề tài là các quy định của luật TTHS về bắt người trong tố tụng hình sự và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hay phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự.
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hay người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra truy tố xét xử và thi hành án hình sự.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam được Luật TTHS năm 2003 quy định tại Điều 80: “1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có thay mặt cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hay bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này”.
- Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
Theo quy định trên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hay cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo nào nếu thấy cần thiết. Ví dụ như: bị can, bị cáo phạm tội như gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội. Bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp này thì việc bắt để tạm giam họ là cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao, mặt khác họ có thể trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
- Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, từng chủ thể có thẩm quyền ra lệnh bắt được xác đinh theo từng giai đoạn tố tụng cụ thể:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp quyết định;
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định;
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
- Về thủ tục bắt bị can bị cáo
Thủ tục này được pháp luật quy đinh rất rõ tại khoản 2,3 Điều 80 Bộ luật TTHS.
Việc quy định và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định nêu trên về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam vừa thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vừa là sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, tránh mọi tác động trái pháp luật tới các quyền này.
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
- Điều kiện áp dụng
Khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể ba trường hợp phạm tội bắt khẩn cấp sau đây:
+ Trường hợp thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đây là trường hợp hành vi khách quan được quy định trong CTTP chưa xảy ra, mới được thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp này là để ngăn ngừa không cho tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đang chuẩn bị được xảy ra, gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Đối với những trường hợp chuẩn bị tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, thì không được bắt khẩn cấp, mà chỉ được áp dụng các biện pháp chủ động khác mang tính giáo dục, phòng ngừa, răn đe để tội phạm không xảy ra.
+ Trường hợp thứ hai, khi người bị hại hay người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hay người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Những điểm xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn thường là: Đang có hành động bỏ trốn; đang chuẩn bị bỏ trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng).
+ Trường hợp thứ ba, khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hay tiêu hủy chứng cứ.
Qua hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính…Cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Những dấu vết của tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ phương tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm… cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể của người bị nghi thực hiện tội phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm chỉ đực coi là một điều kiện để bắt người khẩn cấp. Ngoài việc phát hiện dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm, nếu cơ quan, người có thẩm quyền thấy cần ngăn chặn người đó trốn hay tiêu hủy chứng cứ, thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Căn cứ của việc ra quyết định bắt khẩn cấp nhằm ngăn chặn ngay việc người bị tình nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn hay tiêu hủy chứng cứ là những tài liệu, chứng cứ khẳng định người đó đã bộc lộ ý định bỏ trốn sau khi bị phát hiện có dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở, không có nơi cư trú nhất định, thuộc loại lưu manh chuyên nghiệp, đang chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ…
- Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 81 BLTT quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
- Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được BLTTHS quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác.
+ Thứ nhất, lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Quy đình này nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu quả và kịp thời, đúng như tên gọi “khẩn cấp” của trường hợp bắt người này. Việc phải có phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với lệnh bắt khẩn cấp trước khi thi hành sẽ là một sự trì hoãn làm mất đi tính chất cấp bách của trường hợp bắt người này.
+ Thứ hai, sau khi bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải giám sát chặt chẽ các căn cứ bắt khẩn cấp trước khi quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt. Trường hợp cần thiết Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt (thời hạn xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp quy định cho viện kiểm sát là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp).
+ Thứ ba, trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm. Từ đó, ta có thể thấy được tính chất cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm, người phạm tội bỏ trốn, cản trở điều tra, khám phá tội phạm, Bộ luật TTHS năm 2003 cho phép bắt khẩn cấp vào bất cứ thời gian nào trong ngày.
3. Bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã
a, Bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hay ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hay bị đuổi bắt.
- Điều kiện áp dụng
Điều 82 BLTTHS quy định những trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
+ Trường hợp thứ nhất, người đang thực hiện phạm tội thì bị phát hiện. Đây là trường hợp tội phạm đã được bắt đầu được thực hiện, đang diễn ra và chưa kết thúc trên thực tế, đang gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Việc người đang thực hiện tội phạm có bị phát hiện hay không tùy thuộc vào đặc điểm của cấu thành tội phạm, bối cảnh xảy ra tội phạm, khả năng, kiến thức, vị trí công tác của người phát giác sự kiện phạm tội.
+ Trường hợp hai, người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp vừa kịp chạy trốn hay đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Trong trường hợp người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại cũng được coi là phạm tội quả tang.
+ Trường hợp ba, người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt. Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạt trốn thì mới có sơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội phạm.
- Thẩm quyền, thủ tục bắt người phạm tội quả tang
Do tính cấp bách cần bắt ngay người phạm tội quả tang để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội hay hành vi trốn tránh pháp luật, cũng như để phát huy tính tích cực của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang được pháp luật tố tụng hình sự quy định cho bất kỳ người nào. Khoản 1 Điều 82 BLTTHS quy định : “Đối với người đang thực hiện tội phạm hay ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hay đang bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hay Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Điều tra có thẩm quyền”.
Việc bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh của cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào.
Nhằm đảm bảo an toàn cho những người tham gia bắt người phạm tội quả tang, khoản 2 Điều 82 BLTTHS quy định: “Khi bắt người phạm tội quả tang hay người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”.
b, Bắt người đang bị truy nã
Người đang bị truy nã là người đã thực hiện hành vi phạm tội, đang trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án và bị lùng bắt ráo riết theo quy định truy nã của Cơ quan điều tra được thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng, niêm yết công khai tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn và các nơi công cộng.
Trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn chặn người phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang.
Các điều, 83, 84, 85 BLTTHS quy định về những việc cần làm ngay sau khi bắt nhay nhận người bị bắt, về biên bản bắt người và thông báo về việc bắt. Đây là những quy định chung cho việc bắt người trong tất cả các trường hợp: bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và người đang bị truy nã.
Điều 83. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hay nhận người bị bắt
1. Sau khi bắt hay nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hay phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hay trả tự do cho người bị bắt.
2. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.
Điều 84. Biên bản về việc bắt người
1. Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.
Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hay không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Điều 85. Thông báo về việc bắt
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hay cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hay làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.
Ba là, khoản 2 Điều 82 BLTTHS chỉ quy định: “khi bắt người phạm tội quả tang hay người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”, trong khi trên thực tế nhiều trường hợp người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã thường có vũ khí và rất dễ chống trả ngay nếu bị bắt giữ. Nhưng lại không quy định quyền này một cách chính xác, chặt chẽ nên rất khó khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Bốn là, cách quy định về bắt người chưa thành niên
- Nếu căn cứ vào quyết định tại khoản 1, 2 Điều 303 BLTTHS thì không thể bắt khẩn cấp người chưa thành niên phạm tội khi có căn cứ quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 81 BLTTHS. Nếu như theo các quy định trên thì rất khó khăn cho việc điều tra vụ án.
- Quy định tại Điều 82 và Điều 303 có sự mâu thuẫn. Nếu phải có đủ căn cứ quy định tại Điều 303 BLTTHS thì quy định về việc bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hay đang bị truy nã sẽ mất đi ý nghĩa kịp thời phát hiện và xử lý tội phạm.
Năm là, đối với những quy định bắt người nước ngoài.
- Khi tiến hành bắt khẩn cấp hay bắt bị can để tạm giam đối với họ phải tuân theo theo quy định của luật Tố tụng hình sự như: đọc và giải thích lệnh bắt, hoạt động này thường phải có người phiên dịch. Khi thi hành lệnh bắt khẩn cấp cũng rất khó thực hiện, vì trường hợp bắt này mang cấp tính cấp bách, người phiên dịch của ta còn ít, khả năng ngoại ngữ của lực lượng tiến hành bắt còn hạn chế. Vì vậy, vấn đề đọc lệnh; giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt chỉ mang tính hình thức, đối tượng bị bắt không hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia Tố tụng hình sự.
- Hai là, Điều 24 BLTTHS cho phép người tham gia tố tụng được quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, vì thế một số đối tượng người nước ngoài đã lợi dụng điểm này, dù biết tiếng Anh nhưng họ vẫn cứ dùng ngôn ngữ bản địa giao dịch với cơ quan điều tra. Người phiên dịch của nước ta chủ yếu dùng tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc; các thứ tiếng khác như: Thái Lan, Pakistan, Iran, Nigieria, Ghana, Congo… rất ít người phiên dịch. Khi không giao dịch được thì khó khăn cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ ban đầu để bắt người phạm tội. Có trường hợp quần chúng bắt người nước ngoài phạm tội quả tang giao cho cơ quan Công an, do bất đồng ngôn ngữ nên cơ quan Công an không lấy lời khai, thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm, khi hết thời hạn tạm giữ thì phải trả tự do cho họ. Như vậy, trường hợp này đã để lọt tội phạm, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
- Ba là, để bắt người theo quyết định truy nã có kết quả thì trong quyết định này phải có đủ những thông tin về đối tượng bị bắt, thực tế nhiều quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội lại thiếu những thông tin cần thiết. Khi có quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền phải báo cáo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy bắt. Công an các tỉnh, thành phải xác định được đầy đủ các thông tin cần thiết về đặc điểm nhân thân, đặc điểm dạng người, quốc tịch của người bị bắt và báo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy bắt đối tượng, đồng thời phải báo ngay cho phòng Quản lý xuất nhập cảnh không làm thủ tục xuất cảnh với các đối tượng trên và ra thông báo truy nã toàn quốc để mọi người phát hiện bắt giữ phục vụ cho yêu cầu giải quyết vụ án.
III. HƯỚNG HOÀN THIỆN
Để biện pháp bắt người ngày càng chặt chẽ hơn và thiết thực hơn, đảm bảo công tác phòng, chống tội phạm kịp thời, chúng tui xin đưa ra một số hướng hoàn thiện như sau:
- Cần xác định lại tên gọi của chế định “bắt bị can, bị cáo để tạm giam thành” là “bắt tạm giam bị can, bị cáo
- Bổ sung quy định này vào Điều 80 BLTTHS như: “ Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hay có thể tiếp tục phạm tội” và “đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hay đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hay cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
- Khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hay bắt người đang bị truy nã quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này” theo cách quy định này có tính chất thừa nội dung nên bỏ cụm từ “trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hay đang bị truy nã”
- Quy định bổ sung trong khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hay bến cảng trở về đầu tiên hay nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký” .
- Quy định điều 303 về bắt người chưa thành niên nên chỉnh sửa để phù hợp với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên thực tế.
- Quy định về bắt người nước ngoài
+ Quy định rõ hơn thủ tục xử lý đối với người được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao có phạm tội quả tang (ai lập biên bản phạm tội quả tang, ai thu giữ vật chứng, thủ tục tiến hành như nào?). Bộ Công an cần ban hành một quy trình quy định về: việc tiếp nhận tin báo về tội phạm có yếu tố nước ngoài, thủ tục xử lý và giải quyết các nguồn tin trên cho đến khi kết thúc hồ sơ, chuyển vụ án tới Viện Kiểm sát để đề nghị truy tố. Cần có quy định riêng, nới rộng hơn về thời gian kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm do người nước ngoài thực hiện.
+ Công an các địa phương cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để quản lý tốt các đối tượng là người nước ngoài. Thực hiện tốt việc này giúp cho chúng ta quản lý được các đối tượng có biểu hiện phạm tội, bắt đối tượng theo quyết định truy nã đạt kết quả tốt.
+ Tăng cường khả năng ngoại ngữ cho cán bộ, chiến sĩ nhất là những cán bộ, chiến sĩ trực tiếp quản lý người nước ngoài, trực tiếp điều tra các vụ án do người nước ngoài thực hiện.
- Đối với các đối tượng có nhân thân đặc biệt thì pháp luật cần ban hành các văn bản kèm theo để những cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt công việc của mình và pháp luật có tính thống nhất cao hơn.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua phân tích ở trên pháp luật quy định về bắt người còn nhiều hạn chế. Bắt người là biện pháp ngăn chặn nhưng nó có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người bị bắt và những người xung quanh. Vì thế pháp luật cần quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn biện pháp này để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan áp dụng pháp luật thực thi một cách hiệu quả.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tiêu chuẩn Công chứng Viên theo pháp Luật những hạn chế bất cập và giải pháp hoàn thiện Luận văn Luật 0
B Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật: 60 Luận văn Luật 1
C Các giải pháp hạn chế tình trạng hành lý bất thường cho Xí Nghiệp Thương Mại Mặt Đất Nội Bài Tài liệu chưa phân loại 0
S HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA TTHS VỀ BẮT NGƯỜI Luận văn Luật 0
L Tiểu luận: Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề Luận văn Luật 0
M Tiểu luận: căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề Luận văn Luật 0
T Vấn đề pháp lý đặt ra về căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề Tài liệu chưa phân loại 0
T Căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề. Luận văn Kinh tế 0
C Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu Tài liệu chưa phân loại 2
M Một số điểm hạn chế, bất cập của các quy định về di chúc chung trong bộ luật dân sự 2005 và hướng giải quyết Tài liệu chưa phân loại 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top