Download Đề tài Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục

Download Đề tài Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục miễn phí





- Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm ăn tốt, đang ổn định và phát triển, tiếp tục tái cơ cấu để tăng cường năng lực cạnh tranh và hội nhập theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Theo quy định tại Nghị định số 141 ngày 22 - 11 - 2006 của Chính phủ “Về ban hành danh mục vốn pháp định của tổ chức tín dụng” thì đến hết năm 2007 vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nước ta phải đạt 1000 tỉ đồng và đến năm 2010 phải đạt 3000 tỉ đồng. Để thực hiện được việc này, các ngân hàng thương mại phải tìm mọi cách để tăng vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng (phát hành mới, phát hành thêm, thưởng cuối năm bằng cổ phiếu) và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cổ phiếu ngân hàng luôn “nóng”.
- Có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư chứng khoán theo 2 hướng:
(1) các nhà đầu tư cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng khoán
(2) những người khác (bao gồm cả công ty chứng khoán của ngân hàng) lại vay tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán (theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho các công ty chứng khoán ngân hàng vay để kinh doanh chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây cũng phần nào tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý và điều hành chính sách tiền tệ.
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

BẢN THU HOẠCH
ĐỀ TÀI: Những hạn chế của TTCK Việt Nam hiện nay Nguyên nhân và giải pháp khắc phục
I - Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam
- Hoạt động mua bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ sau khi hàng loạt doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, đây là một tiền đề quan trọng cho việc hình thành nên một thị trường giao dịch, huy động vốn trực tiếp hay còn gọi là thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động vào tháng 7/2000, với sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 28/7/2000 theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, mà nay đã được chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 8/8/2007. Sau đó vào 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động đánh dấu bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Trung tâm GDCK TP Hồ Chí Minh khai trương hoạt động của mình chỉ với 2 mã cổ phiếu là REE và SAM với giao dịch khối lượng giới hạn. Vào tháng 7/2005, số lượng mã cổ phiếu niêm yết trên thị trường này đã là 30 mã cổ phiếu cộng thêm 1 quỹ đóng. Đến nay, con số này đã là 110 mã cổ phiếu được niêm yết với tổng vốn hóa thị trường xấp xỉ 13 tỉ USD, 2 chứng chỉ quỹ IFCs và 407 trái phiếu các loại. Giá trị giao dịch bình quân trong ngày trên thị trường này lên tới 40 triệu USD. Có thể quan sát thấy rằng, trong 7 năm qua chỉ số VNIndex(chỉ số phản ánh tình hình giá cả trên thị trường giao dịch TPHCM) trên thị trường đã tăng mạnh và liên tiếp tạo nên những bước nhảy vọt kỉ lục mặc dù trong thời gian gần đây thị trường đang có nhiều điều chỉnh khiến chỉ số VNIndex có phần ảm đạm. Những mức đỉnh đạt được hết sức quan trọng thúc đẩy thị trường đi lên như mức 571.04 điểm vào tháng 6/2001, mức 632.69 điểm vào tháng 4/2006 và gần đây nhất là mức đỉnh kỉ lục 1174.22 điểm trong tháng 3/2007. Tuy nhiên chỉ số VNIndex hiện nay đang trong giai đoạn điều chỉnh và nó đã giảm xuống khoảng 20% so với mức đỉnh kỉ lục đã đạt được. Hiện nay TT GDCK HCM đã được chuyển đổi thành Sở GDCK HCM (HOSE - Ho Chi Minh Stock Exchange), hoạt động như một công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên và chuyển đổi cách từ giao dịch khớp lệnh định kỳ sang giao dịch khớp lệnh liên tục.
- Trung tâm GDCK Hà Nội khai trương hoạt động vào tháng 3/2005 dưới sự giám sát chặt chẽ chỉ thực hiện một số hoạt động đấu giá IPO - Initial public offering(phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng) và một số trái phiếu chính phủ trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 7/2005. Sau đó, thị trường giao dịch tại Hà Nội mới chính thức hoạt động như thị trường giao dịch thứ cấp vào với giá trị giao dịch khiêm tốn khoảng 6.4 triệu USD. Đến nay, thị trường này đã có 87 mã cổ phiếu được đăng ký với tổng giá trị thị trường là 4.5 tỉ USD. Và theo định hướng của Chính phủ thì xây dựng thị trường giao dịch Hà Nội trở thành một trung tâm giao dịch chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn pháp định từ 10 tỉ VND cho đến 80 tỉ VND, và đến năm 2010 phải xây dựng TT GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC - Over the counter) đơn giản, gọn nhẹ.
- Đứng bên ngoài những hoạt động giao dịch cổ phiếu trên hai thị trường tập trung chính thức đó là thị trường phi tập trung OTC, mà theo như những người trên thị trường gọi nó là ''thị trường chợ đen'' chính vì chưa có một trung tâm giao dịch nào hình thành để quản lý thị trường này. Đây là một thị trường phát triển tự phát, độc lập và chưa được quản lý chặt chẽ, nên rất khó nắm bắt những số liệu báo cáo, tuy nhiên theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì giá trị thị trường OTC đang giao dịch là rất lớn, với khoảng 600 công ty đại chúng đang có cổ phiếu lưu hành trên thị trường này.
- Với sự phát triển thần kì trong suốt 7 năm qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đánh dấu những bước tăng trưởng nhảy vọt trong đầu tư với tổng lượng vốn hóa thị trường đã đạt mức 17.5 tỉ USD mà trong đó đã có sự tham gia của khoang 200.000 tài khoản của nhà đầu tư trong nước và 6.000 của nhà đầu tư nước ngoài trong đó có 4000 nhà đầu tư cá nhân và 270 nhà đầu tư có tổ chức. Số lượng các quỹ đầu tư trên thị trường cũng tăng lên đáng kể, hiện nay đã có 45 quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, với tổng vốn đạt 6.277 tỉ USD. Ngoài ra, còn có khoảng 50 tổ chức đầu tư theo hình thức uỷ thác qua công ty chứng khoán.
- Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Tính đến nay, trên thị trường có 57 công ty chứng khoán, tăng mạnh hàng năm, vốn điều lệ bình quân đạt 77 tỉ đồng/công ty. Ngoài ra, còn có sự tham gia của 18 công ty quản lý quỹ, 2 chứng chỉ quỹ đầu tư, 43 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 8 ngân hàng lưu ký.
- Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) đã tạo khung pháp lý cao cho TTCK phát triển góp phần thúc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện. Chính phủ đã chỉ đạo việc phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát TTCK ở nước ta tạo ra sự ổn định và phát triển mạnh mẽ của thị trường.
1. Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK Việt Nam trong thời gian qua là:
- Cùng với sự phát triển của các nhà đầu tư là doanh nghiệp (bảo đảm về năng lực tài chính, có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khoán...) thì sự phát triển của các nhà đầu tư cá nhân rất đông (chiếm hơn 70% số nhà đầu tư) và nhà đầu tư nước ngoài cũng quan tâm đầu tư vào TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả những nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân). Các nhà đầu tư nước ngoài (hiện có khoảng 4000 nhà đầu tư cá nhân và 270 nhà đầu tư có tổ chức) chủ yếu đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu đã niêm yết (khoảng 68% cổ phiếu và 32% trái phiếu), trong đó các nhà đầu tư nhỏ lẻ đã nắm giữ tới 1tỉ USD.
- Tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta hiện nay còn mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật và cũng qua đó nhiều người được hưởng từ “một vốn, bốn lời” thậm chí tới 10 hay hơn 10 lời.
Tình hình sôi động của TTCK đã phản ánh những hiện tượng kinh tế tốt lành là:
(1) nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng;
(2) vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và vẫn còn điều kiện phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp lớn (trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại các công ty chứng khoán. ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tiêu chuẩn Công chứng Viên theo pháp Luật những hạn chế bất cập và giải pháp hoàn thiện Luận văn Luật 0
D Vai trò của Nhà nước trong việc hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế thị trường Môn đại cương 0
D Vai trò nhà nước trong hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường Môn đại cương 0
D Nghiên cứu những hạn chế và giải pháp khắc phục cho canh tác ruộng bậc thang tại Huyện Văn Chấn-Tỉnh Nông Lâm Thủy sản 0
N Tìm hiểu những nguyên nhân, đưa ra cách khắc phục những hạn chế đang tồn tại sau khi cổ phần hoá Luận văn Kinh tế 0
B Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quốc Tế chi nhánh Thanh Xuân Luận văn Kinh tế 2
B Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và nội dung đường lối đổi mới của Đảng - Những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới 1986-1991 Khoa học Tự nhiên 6
T Giải pháp nhằm hạn chế những rủi ro trong thẩm định dự án đầu tư ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp Luận văn Kinh tế 0
A Những khó khăn và hạn chế trong xuất khẩu Cà Phê ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
B Tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường phát hành thẻ - Những hạn chế về phát hành thẻ của ngâ Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top