myself_122

New Member

Download miễn phí Tiểu luận Vì sao chúng ta nói rằng sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên?





Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Bởi vì chỉ có phát triển kinh tế nhiều thành phần mới làm tăng sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể - đẩy mạnh trao đổi và phát triển thị trường. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền dân chủ, công bằng về mặt kinh tế cho mọi người. Mọi công dân đều có quyền hoạt động kinh tế trong khuôn khổ của pháp luật để làm giàu cho mình và làm giàu cho xã hội.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ữa người với người đối với vật.
Nội dung của quan hệ sở hữu được xét trên hai mặt.
- Thứ nhất: Xét về mặt pháp lý, sở hữu được luật pháp hoá thành các quyền, bao gồm: quyền sở hữu, quyền định đạt, quyền chuyển nhượng, quyền kế thừa... và cơ chế để thực hiện các quyền đó thì gọi là chế độ sở hữu.
- Thứ hai: Xét về mặt kinh tế, khi sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, nó gắn liền với lợi ích và thu nhập của chủ sở hữu đối với của cải, mang lại thu nhập cho chủ sở hữu. Mỗi hình thức sở hữu mang lại hình thức thu nhập khác nhau cho chủ sở hữu.
Sở hữu cổ phần đ thu nhập là cổ tức
Sở hữu ruộng đất đ thu nhập là địa tô
Khi quan hệ sở hữu được luật pháp hoá thành các quyền: quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt... và cơ chế để thực hiện các quyền đphát sinh gọi là chế độ sở hữu. ở bất kỳ xã hội nào, chế độ sở hữu đều là vấn đề căn bản nhất của chế độ kinh tế xã hội đó. Bởi vì nó là nội dung quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất, quyết định đến tính phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ có trên cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề về động lực, vấn đề lợi ích kinh tế, vấn đề chính trị, vấn đề pháp quyền và các vấn đề xã hội.
Chúng ta cùng xem xét trong lịch sử, giai đoạn từ năm 1975 - 1986, giai đoạn chúng ta mới thực hiện xong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này, do chúng ta nôn nóng, chủ quan duy ý chí, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xoá bỏ hết các hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể. Do không tính đến điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta ở giai đoạn đó nên chúng ta đã bị sai lầm. Do chế độ sở hữu sai lầm như vậy sẽ không giải quyết thoả đáng các vấn đề về động lực, lợi ích kinh tế đ từ đó dẫn đến các khó khăn về kinh tế cho đời sống dân cư, nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển đ dẫn tới hàng loạt các khó khăn về chính trị và các vấn đề xã hội khác. Qua đó mà ta thấy được tầm quan trọng của việc giải quyết đúng đắn các vấn đề về sở hữu trong bất cứ xã hội nào. Nhận thức được điều này, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trên quan điểm thẳng thắn, Đảng ta đã thừa nhận sai lầm trên; chúng ta cho phép nền kinh tế tồn tại đa hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ. Những thành tựu to lớn trong những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ tính đúng đắn của chế độ sở hữu ở nước ta hiện nay.
Chế độ sở hữu bao gồm 3 nội dung:
- Thứ nhất là nội dung vật chất của sở hữu hay còn gọi là đối tượng của sở hữu, nó bao gồm sở hữu tư liệu tiêu dùng, sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu vốn, sở hữu chất xám, sở hữu bản quyền, sở hữu thị trường...
- Thứ hai là nội dung kinh tế của sở hữu.
- Thứ ba là nội dung pháp lý của sở hữu.
Ba mặt trên của chế độ sở hữu thống nhất với nhau và chỉ có thể đảm bảo tính thống nhất của ba mặt đó thì chế độ sở hữu mới phát huy được hiệu quả và không trở thành hình thức.
Trong chế độ sở hữu, cần phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất.
- Trong nền kinh tế tự cung tự cấp và trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất là đồng nhất với nhau. Đó là sở hữu của những nông dân và thợ thủ công. Người sở hữu cũng là người sử dụng tư liệu sản xuất đó.
- Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất lại có những diễn biến đa dạng do sự xuất hiện của nhiều loạ hình sở hữu, nhiều chủ thể sở hữu và các cấp độ khác nhau. Do đó, quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể thuộc về chủ thể duy nhất, cũng có thể là quyền sở hữu thuộc người này nhưng quyền sử dụng lại thuộc về người khác, tức là có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Thí dụ, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp địa chủ vẫn có quyền sở hữu đối với ruộng đất, nhưng quyền sử dụng lại thuộc về nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp thuê ruộng đất đó của địa chủ. Như vậy, giai cấp địa chủ đã chuyển quyền sử dụng ruộng đất sang các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp. Thí dụ khác nữa đó là trong hình thức công ty cổ phần, quyền sở hữu vốn thuộc về các cổ đông, nhưng quyền sử dụng vốn (dùng vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh) lại tuộc về ban quản trị. Tuy nhiên, trong hình thức doanh nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa thì thông thường quyền sở hữu và quyền sử dụng thuộc về một chủ thể (nhà tư bản tự bỏ ra tiến hành sản xuất kinh doanh).
ở Việt Nam cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới, khi nói đến chế độ sở hữu thì thường chỉ đề cập tới đối tượng sở hữu chủ yếu là chế độ sở hữu thì thường chỉ đề cập tới đối tượng sở hữu chủ yếu là tư liệu sản xuất, nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hoá dưới tác động mạnh mẽ của cuộc sống khoa học công nghệ hiện đại thì đối tượng sở hữu cũng phong phú hơn. Ngoài sở hữu tư liệu sản xuất còn sở hữu vốn, sở hữu công nghệ, sở hữu thị trường....
2. Vậy, vì sao chúng ta nói rằng sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên?
Như phần trên chúng ta đã làm rõ khái niệm sở hữu, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, là một nội dung chủ yếu trong quan hệ sản xuất xã hội và nền sản xuất xã hội. Hình thức, mức độ, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà nó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó có nghĩa sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
a. Về mặt lý luận, theo Mác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ông đã dùng quy luật này để lý giải sự ra đời và phát triển của 5 cách sản xuất xã hội trong lịch sử và coi cách sản xuất xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định.
Với tư cách là những người sáng lập ra trường phái kinh tế chính trị Mácxít, Mác và Ănghen không phải chỉ một lần bàn về vấn đề sở hữu. Đặc biệt trong tác phẩm "Tuyên ngôn Cộng sản", ông đã nhấn mạnh: "Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác". Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá trình lịch sử tự nhiên, Ăng hen khuyên rằng: "Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất" bởi vì sự tồn tại của các hình thức sở hữu là khách qua...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top