jn_xjnh_online

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Lời mở đầu
Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Người đã từng nói : "tui chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.
Mặc dù Người đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người vẫn còn mãi mãi và thực tế đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Người, Đảng ta đã và đang xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để hiểu hơn tư tưởng của Người và sự vận dụng những tư tưởng ấy của Đảng trong xây dựng nhà nước, nhóm 3 đã nghiên cứu đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay”.
Đề tài bao gồm 3 nội dung chính :
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
1. Nhà nước của dân
2. Nhà nước do dân
3. Nhà nước vì dân
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay
1. Những vấn đề thực tiễn
2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay




I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ :
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng nhân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác - Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là "dân là chủ". Khi xác định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm "dân chủ" đối lập với quan niệm "quan chủ ". Đây là khái niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Qua đó Hồ Chí Minh còn cho rằng "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước do nhân dân làm chủ". "Chế độ ta là chế độ dân chủ .Tức là nhân dân làm chủ" "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Khi Hồ Chí Minh biểu đạt như thế chúng ta có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân ; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập năng lực trách nhiệm của dân.Hai điều này thể hiện vai trò ,vị trí, quyền và trách nhiệm của dân trong xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác - Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân :
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một Nhà nước mới ở Việt Nam là một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người sáng lập. Quan điểm đó xuyên suốt, có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước cách mạng ở Việt Nam.
Hiểu một cách tổng quát nhất quan điểm “xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân”, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có những nội dung sau đây :
1. Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập mọi quyền lực trong tay Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo : Hiến pháp năm 1946 và hiến pháp 1959.


Hiến pháp 1946 nêu rõ :
- Mọi công việc quốc gia do dân phán quyết : Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ thay mặt bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp.


Chủ tịch Hồ Chí Minh, người công dân số 1,
đại biểu đầu tiên của Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát nhà nước :
Phải bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu được bầu ra... Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân" Như vậy, bộ máy nhà nước phải do dân cử ra, tổ chức nên; hoạt động của Nhà nước phải lấy mục tiêu là phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. "Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người''.
Nhà nước được tổ chức trên cơ sở pháp luật; pháp luật cũng là nền tảng chủ yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo vệ sự an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm cho con người. Những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng uy quyền của pháp luật; là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, do nhân dân lập nên và được kiểm tra, giám sát bởi nhân dân.
- Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân : Quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không tín nhiệm với sự tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, muôn đảm bảo được tính chất nhân dân của Nhà nước, phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của cơ chế này quy định. Và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". Và cao hơn nữa là "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ". Những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thật trong sáng, rõ ràng, thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ của bộ máy nhà nước mà Người nỗ lực xây dựng.
"Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"
Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để nhân dân cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
2. Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ:
Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.

1. Cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, cách lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
2. Tiến hành đồng thời các nhiệm vụ cải cách thể chế và cách hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có đủ năng lực.
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
4. Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Để thực hiện những nhiệm vụ hiện thời, cần tập trung vào những vấn đề cải cách nền hành chính Nhà nước, tập trung vào 3 vấn đề trọng yếu là :
- Một là, cải cách thể chế : thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành chính cả về thể chế lẫn tổ chức thực hiện; loại bỏ những khâu bất hợp lí, phiền hà; ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng và hối lộ.
- Hai là, cải cách tổ chức bộ máy : tiếp tục thực hiện chấn chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy, biên chế, quy chế hoạt động làm cho bộ máy tinh gọn, đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, có hiệu lực từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở, đồng thời phát huy tính tự chủ, năng động của địa phương, cơ sở.
- Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức : Nhà nước chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ chính quyền các cấp. Xây dựng phong cách và cách công tác cán bộ, công chức phù hợp với đạo đức cách mạng. Cán bộ, công chức phải có thái độ chân thành, tôn trọng dân, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân, không thành kiến, phân biệt đối xử khi làm việc với dân.
Cùng với việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức phải kết hợp việc định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ công chức yếu kém, làm trong sạch bộ máy Nhà nước.
Cần tăng cường và tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện vai trò làm chủ, kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức.
 Chống tham nhũng, quan liêu
Đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu phải giải quyết từ gốc, loại trừ các nguyên nhân gây ra tham nhũng. Phải xử lý nghiêm minh các vụ tham nhũng và phải tiến hành thường xuyên, liên tục, bền bỉ.
Trước hết, phải tiếp tục kiện toàn bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường quản lý nhà nước, không để sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Tiếp tục xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là những khâu, những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Cải tiến chế độ tiền lương, bảo đảm công chức có thể sống bằng thu nhập từ tiền lương.
Cùng với xây dựng phải kiên quyết xử lý, xử lý nghiêm, kịp thời các vụ tham nhũng ở khắp mọi nơi, mọi cấp, đối với mọi cương vị.
Tăng cường giáo dục chính trị và phẩm chất, đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Quản lý và kiểm tra chặt chẽ đảng viên, công chức ở nơi công tác và cư trú để mỗi người, ở bất cứ cương vị nào, đều phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức, giữ vững phẩm chất. Công tác chống tham nhũng là công việc khó khăn và phức tạp, phải lựa chọn những người trong sạch, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm chuyên môn tham gia.
 Nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở
- Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở.
- Thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ đi liền với củng cố, nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
 Đổi mới cách lãnh đạo của Đảng
Phải xác định sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là thông qua tổ chức chứ không phải cá nhân; Đảng lãnh đạo bằng quyết định tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện; phát triển các điển hình và chỉnh đốn các sai lệch. Đảng lãnh đạo bằng cách phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không làm thay, điều hành thay Nhà nước. Các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước và đoàn thể phải có nhiệm vụ quán triệt đường lối chính sách của Đảng trong hoạt động của các cơ quan, đoàn thể.
Gắn bó với thực tiễn, phải thường xuyên đi sát cơ sở, lắng nghe ý kiến, trả lời chất vấn của đảng viên và nhân dân, nhanh chóng phát hiện khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
Cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị phải gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị.
 Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là thành tố của thể chế dân chủ XHCN, có vai trò rất quan trọng trong xây dựng hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của mỗi hội viên, đoàn viên, bênh vực quyền lợi của dân, góp phần giữ kỷ cương phép nước, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, đồng thời tìm ra nhiều hình thức mới, linh hoạt tập hợp quần chúng và tổ chức sinh hoạt với nội dung phù hợp. Phải khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương hình thức, tình trạng quan liêu, xa dân của Mặt trận.
Phải mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, nhân đạo. Trong điều kiện cho phép, các tổ chức này có thể tham gia Mặt trận.


Kết luận
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Đại hội IX, đã nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, là mục tiêu chung, là điểm tương đồng để đoàn kết toàn dân thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là sự vận dụng và phát triển tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
Cuộc thử thách của quá trình hiện thực hóa những tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ còn tiếp tục vì sự xuất hiện của những yếu tố mới trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Nhưng giải phóng con người, tinh thần của con người cùng với sự phát triển toàn diện con người là mục tiêu của dân chủ Hồ Chí Minh, mục tiêu đó phù hợp với sự tiến hóa của loài người, nên dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thực và là của tương lai. Bởi vậy, di sản tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và những thành tựu dân chủ do Người để lại mà ngày nay chúng ta đang thừa kế là nền tảng tinh thần và vật chất vô giá cho dân tộc ta và Đảng ta vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Lộc Thị Hà

New Member
Trong những năm đầu của thời kỳ quá độ, với những ưu thế của mình, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng những tiền đề để thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện mới, Đảng ta lại là người đề xuất, lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng : đưa đất nước vượt qua thử thách trước sự tan vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập, đưa đất nước tiếp tục tiến lên.
Những năm qua, trong tiến trình dân chủ hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách dân chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cơ bản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng, trải nghiệm và từng bước hoàn thiện của nước ta còn nhiều khuyết điểm do tổ chức, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới trong điều kiện một đất nước có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế lạc hậu. Thực trạng đó đang đặt ra nhiều nhiệm vụ phải giải quyết với nhiều vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển của nền dân chủ nước ta.



/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35109/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:​

i''.
Nhà nước được tổ chức trên cơ sở pháp luật; pháp luật cũng là nền tảng chủ yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo vệ sự an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm cho con người. Những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng uy quyền của pháp luật; là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, do nhân dân lập nên và được kiểm tra, giám sát bởi nhân dân.
Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân : Quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không tín nhiệm với sự tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, muôn đảm bảo được tính chất nhân dân của Nhà nước, phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của cơ chế này quy định. Và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". Và cao hơn nữa là "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ". Những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thật trong sáng, rõ ràng, thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ của bộ máy nhà nước mà Người nỗ lực xây dựng.
"Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"
Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để nhân dân cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ:
Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một kỳ họp Quốc hội
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946) vốn là một Quốc hội lập hiến. Song do hoàn cảnh cách mạng và kháng chiến nên Hiến pháp năm 1946 chưa được ban hành. Quốc hội đã giao cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội căn cứ vào các nguyên tắc đã định của Hiến pháp để thực thi việc lập pháp.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội đã giải quyết mọi vấn đề của toàn quốc, lập hiến và lập pháp, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.
Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hội đồng chính phủ (nay gọi là Chính phủ).
Hình trái: Nguyễn Văn Tố - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (02/3/1946 - 8/11/1946)
Hình giữa: Bùi Bằng Ðoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (09/11/1946 - 19/9/1955)
Hình phải: Tôn Ðức Thắng - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (20/09/1955 - 8/5/1960)
Quốc hội bầu Hội đồng Dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Hội đồng Dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách Dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Dân tộc. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được tham gia các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham gia các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của cả Nhà nước, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
Theo hiến pháp 1946 :
Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Quyền hạn của Chính phủ:
a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.
đ) Bổ nhiệm hay cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hay chuyên môn.
e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
g) Lập dự án ngân sách hàng năm.
Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của nhân dân (thông qua quốc hội do dân bầu ra).
Ðại biểu Quốc hội là người thay mặt cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ thay mặt cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn thay mặt cho nhân dân cả nước. Ðại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo d
cho mình xin bài
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Tóm tắt tư tưởng Hồ Chí Minh Môn đại cương 1
D giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người Văn hóa, Xã hội 0
D Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Môn đại cương 0
D TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Môn đại cương 0
H Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh Môn đại cương 0
D những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những nguyên tắc đó để rèn luyện đạo đức cá nhân Môn đại cương 0
D Tư tưởng hồ chí minh vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản vào công cuộc xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay Môn đại cương 0
D Tìm hiểu sự vận dụng của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản trong việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay Môn đại cương 0
D Những phẩm chất đạo đức cơ bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh Vận dụng những phẩm chất này vào xây dựng đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay? Môn đại cương 0
D tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của đảng ta, liên hệ bản thân Y dược 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top