daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lịch sử hình thành – thiết kế.
John C. Raven
Nhà tâm lý học người Anh
Sinh: 28 tháng 6, 1902, Luân Đôn, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Mất: 10 tháng 8, 1970
Trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn chuẩn do J.C Raven ( nhà tâm lý học người
Anh) xây dựng. Trắc nghiệm này lần đầu tiên được ông mô tả vào năm 1936,
được chỉnh lý và bổ sung vào năm 1947 và 1956.
Để xây dựng nên một bộ test, Raven đã trải qua 1 quá trình thực nghiệm, xem

xét, chỉnh lí rất công phu. Khi xây dựng thang năm 1936, Raven đã thấy có
những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, các trẻ nhỏ, người thiểu năng, qua cao tuổi
chỉ giải được phần A và B hay bài dễ nhất trong C – D. Tuy vậy vì 1 số lí do nào
đó họ vẫn có thể chọn được đáp án đúng.
1947: Raven sửa lại item gốc B8 1 phần nhỏ để đảm bảo độ khó dần và hoàn
chỉnh phạm vi vấn đề. Đồng thời, Raven chuẩn bị thêm 2 thang dẫn xuất để sử
dụng trong các công trình thử nghiệm và những nghiên cứu so sánh.
1956: các item trong năm 1938 đã được sắp xếp lại cho hợp lý. Đồng thời 2 bản
“dẫn xuất” 1947 cũng được chỉnh lý, 1 bản cho trẻ em trong giai đoạn lâm sàng, 1
bản cho đối tượng người lớn có mức độ trí tuệ trung bình và trên trung bình.
Trắc nghiệm này được xây dựng trên 2 cơ sở lý thuyết:

-

Thuyết tri giác hình thể của tâm lý học Gestal: Theo thuyết này, mỗi
bài tập được xem như là một chỉnh thể nhất định, bao gồm một loạt thành phần
có liên hệ qua lại lần nhau.Họ cho rằng, các hình ảnh trong tri giác đều là cái
Gestal, có nghĩa đều là cấu trúc hoàn chỉnh. Theo đó hình ảnh tri giác bao giờ
2


cũng có xu thế có 1 hình ảnh trọn vẹn. Khi tri giác bài tập sẽ diễn ra một sự
đánh giá toàn bộ đối với bài tập, sau đó nảy sinh sự tri giác có tính phân tích.
Sau đó các yếu tố tách ra lại được đưa vào một hình ảnh hoàn chỉnh, góp phần
phát hiện những chi tiết còn thiếu của hình vẽ.
VD: Nhìn 1 hình tam giác thiếu 1 góc vẫn tạo ra hình ảnh về 1 hình tâm giác có
3 cạnh và 3 góc. => đồng nhất cấu trúc bên ngoài – cấu trúc vật lý với cấu trúc
bên trong – cấu trúc tâm lý.


Dựa vào quan điểm này, Raven thấy rằng: Có thể đưa ra một loạt những bài tập
là một chỉnh thể nhất định bao gồm các nguyên tố tạo thành chỉnh thể đó. Lý
thuyết này mới chỉ mang tính định hướng khi xây dựng trắc nghiệm, chưa là cơ
sở cho trắc nghiệm raven

-

Thuyết tân phát sinh của Spearman (gestal mới): Là cơ sở trắc nghiệm
chính của Raven. quá trình tri giác 1 sự vật nào đó có thể chia làm 3 pha theo 3
quy luật tân phát sinh.

o

Quy luật 1: Sự nắm bắt toàn bộ hoàn chỉnh khuôn hình – Trí
giác khái quát toàn bộ sự vật

o

Quy luật 2: vạch ra những mối quan hệ giữa các thành phần –
Tri giác các chi tiết cục bộ nhằm phát hiện ra tính chất của sự vật như tính liên
tục, tính trọn vẹn, sự giống và khác nhau giữa các bộ phận, chi tiết, sự thay đổi
liên tiếp của các cấu trúc, sự thay đổi vị trí, sự phân giải các cấu trúc lớn thành
các cấu trúc bộ phận.

o

Quy luật 3: dựa trên cơ sở của nguyên tắc về mối liên hệ giữa
các thành phần và các toàn thể đã được xác lập từ đó Diễn ra sự phục hồi phần
còn thiếu của khuôn hình – Tri giác tổng thể sự vật lần nữa.



Nhận thức sự vật không chỉ là tri giác đơn thuần mà còn phải sự tham gia tích
cực của tư duy, chú ý….Vì thực chất của tư duy lúc này là quá trình cấu trúc lại
các hình ảnh của tri giác cho đến khi giải quyết được các nhiệm vụ của tri giác.

3


Raven cho rằng: Nếu các nguyên lý hình thành tri giác, lý trí của spearman mà
đúng thì có thể xây dựng bộ trắc nghiệm để phát triển khả năng của con người
về quan sát và tư duy tức thời, thông qua liên hệ giữa các hình ảnh được tri giác
với việc tư duy cấu trúc lại các hình ảnh đó cho phù hợp cấu trúc tổng thể của
sự vật. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, trí tuệ của cá nhân không thể chỉ dựa vào
khả năng tri giác mà còn có nhiều yếu tố khác chi phối.
2.

Các phiên bản
Trắc nghiệm Raven là trắc nghiệm phi ngôn ngữ, nó được dùng để đo các năng
lực tư duy trên bình diện rộng nhất. Những năng lực đó là: Năng lực hệ thống
hóa, nằng lực tư duy logic và năng lực vạch ra những mối liên hệ tồn tại giữa sự
vật hiện tượng. Trắc nghiệm cho phép san bằng trong một mức độ nào đó ảnh
hưởng của trình độ học vấn và kinh nghiệm sống của người được nghiên cứu.
Trắc nghiệm Raven có 3 phiên bản chính và 1 phiên bản mở rộng: nhưng chúng
ta chỉ tập trung vào 2 phiên bản màu và đen – trắng. Phiên bản đen trắng dành
cho người lớn từ 14 - 65 tuổi và phiên bản màu dành cho trẻ em dưới 16 tuổi và
người lớn trên 65 tuổi.
Trắc nghiệm Ravens có ba phiên bản chính và một phiên bản mở rộng
1. Trắc nghiệm Raven tiêu chuẩn (Progressive Matrices tiêu chuẩn): Đây là
những phiên bản ban đầu của các ma trận, lần đầu tiên được xuất bản vào năm

1938. Cuốn sách gồm năm bộ (A, B, C, D, E ), mỗi bộ có 12 mục (ví dụ, A1 đến
A12), các mục nằm trong tập hợp ngày càng khó hơn, đòi hỏi nhiều hơn nữa
năng lực nhận thức để mã hóa và phân tích thông tin. Tất cả các mục được trình
bày bằng mực đen trên nền trắng.
2.Phiên bản Raven màu (Progressive Matrices màu): Được thiết kế cho trẻ em,
người già, và những người có khó khăn trong học tập trung bình hay nặng , thử
nghiệm này bao gồm bộ A và B từ trắc nghiệm tiêu chuẩn, với một bộ 12 bài
chèn vào giữa hai, như được AB. Hầu hết các mục được trình bày trên một nền
4


màu để làm cho các kiểm tra trực quan kích thích cho người tham gia. Tuy
nhiên, vài bài cuối cùng trong B thiết lập được trình bày như đen - trắng, theo
cách này, nếu một chủ đề vượt quá mong đợi của thử nghiệm, chuyển đổi sang
bộ C, D, và E của các trắc nghiệm tiêu chuẩn được nới lỏng.
3. TN Raven nâng cao (Progressive Matrices nâng cao) : Các phiên bản tiên
tiến của các ma trận có 48 mục, tập đầu tiên có 12 bài, tập thứ 2 có 36 bài. Mục
được trình bày bằng mực đen trên nền trắng, và ngày càng trở nên khó khăn khi
tiến độ thực hiện thông qua mỗi tập. Các mục này thích hợp cho người lớn và
thanh thiếu niên thông minh trên mức trung bình .
4. Phiên bản mở rộng của ma trận.
Năm 1998 song song với phiên bản của các ma trận tiêu chuẩn và màu, ma trận
mở rộng được giới thiệu. Các phiên bản mở rộng trong các thử nghiệm song
song được xây dựng là giải pháp trung bình cho mỗi câu hỏi giống hệt nhau cho
cả các phiên bản. Phiên bản mở rộng của các ma trận được công bố để kiểm tra
thanh niên và người lớn.
Test Raven được thiết kế theo kiểu phi ngôn ngữ để giảm thiểu những thành
kiến về sự khác biệt ngôn ngữ có thể tạo ra để đo trí thông minh. Bạn có 45 phút
để giải quyết 60 bài kiểm tra. Số điểm IQ được tính trên cơ sở các chỉ tiêu thống
kê với độ tuổi của bạn.

Nội dung của trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn
Phiên bản đen – trắng dành cho người lớn: Trắc nghiệm gồm 60 bài tập, chia
làm 5 phần A, B, C, D, E, phần sau phức tạp hơn phần trước. Trong mỗi phần
gồm 12 bài tập và cũng được sắp xếp từ dễ đến phức tạp nhất. 5 phần trong trắc
nghiệm được cấu tạo theo những nguyên tắc sau:
- Phần A: tính liên tục, trọn vẹn của cấu trúc.

- Nói cho cùng, chúng ta chưa có chuẩn chung, được sử dụng thống nhất trong
cả nước. Để có được một chuẩn như vậy phải tốn khá nhiều công sức và tiền
bạc. Mặc dù chúng ta không có chuẩn chung song cũng đã có nhiều nghiên cứu
mang tính chất thích ứng và kết qủa cho thấy chúng ta có thể sử dụng được nó.
- Kết quả được xem là đủ độ tin cậy nếu sự chênh lệch ở từng loạt bài không
vượt quá 2 và tổng các chênh lệch không vượt quá 6. tuy nhiên, trong lâm sàng,
13


nếu có sự chênh lệch quá lớn so với phân bố chuẩn thì nên có những khảo sát

cần thiết để xác định nguyên nhân
- Các nghiệm pháp của trắc nghiệm chủ yếu là hệ thống bài tập hướng tới một
số yếu tố nhất định của trí tuệ, còn bỏ qua nhiều yếu tố tâm lý khác. Vì vậy, một
kết quả trắc nghiệm tốt chưa hẳn là đảm bảo chắc chắn cho trẻ thành công trong
những tình huống tương ứng trong hiện tại.
- Chủ yếu đo lường yếu tố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tư duy, những yếu tố dễ
thay đổi & phát triển trong quá trình hoạt động và học tập của trẻ. Vì vậy, sử
dụng trắc nghiệm thiếu thận trọng dễ dẫn đến đánh tráo đối tượng nghiên cứu.
Trắc nghiệm được sử dụng tràn lan sẽ tạo ra hiện tượng “nhờn” đối với nghiệm
thể. Nếu lạm dụng => Phương hại đến sự phát triển trí tuệ.
- Test Raven nhằm đo chỉ số trí tuệ. Tuy nhiên không nên rập khuôn một cách
máy móc, để mặc cho khách thể làm sau khi có hướng dẫn. cần theo dõi
tiến trình thực hiện của khách thể. Nếu thấy khách thể bắt đầu làm sai thì có thể
đặt câu hỏi để làm sáng tỏ nguyên nhân: do kém tập trung hay do chưa hiểu rõ
cách làm. Khi đó các câu hỏi được đưa ra ở các mức độ khác nhau:
- Anh vừa nói là hình số mấy? (Không phải là chúng ta không nghe thấy câu trả
lời mà hỏi lại chính là nhằm xác định xem khách thể có tập trung hay không và
một lần nữa họ có dịp xem lại lựa chọn của mình).
- Theo anh là hình số 5? Đã đúng chưa? (Vừa là câu hỏi lại vừa là sự gợi ý ở
mức độ nhẹ. Nếu khách thể lựa chọn lại chính xác câu trả lời thì bài tập lại được
tiếp tục. Nếu lại lựa chọn sai thì khi này mới nên đưa ra câu hỏi-gợi ý).
- Anh xem lại xem, có lẽ hình đó chưa đúng đâu.
- Tại sao anh lại lựa chọn hình...

14


Như vậy các câu hỏi đóng vai trò trợ giúp. Trợ giúp cho khách thể thực hiện bài
tập song về thực chất chính là trợ giúp nhà tâm lý lâm sàng có thêm thông tin về
một số khía cạnh tâm lý của khách thể. Như trường hợp trên, việc chỉ ra cụ thể

đáp án đó giúp nhà tâm lý đánh giá xem liệu khách thể có khả năng vận dụng
hiểu biết đó để làm tiếp hay không, họ có khả năng tự phê phán bản thân (nhận
thấy mình làm sai) hay lại quay ra phê phán thực nghiệm. Trong trường hợp như
vậy, phương pháp đã vượt ra ngoài một trắc nghiệm thông thường và nhà tâm lý
cần có đủ kĩ năng để xử lí kết quả thu được.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top