adminxen

Administrator
Staff member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Tổng quan mô hình hệ thống y tế của một số
quốc gia trong khu vực và trên thế giới
Phan Huyền Dân
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới

Tóm tắt: Bài viết mô tả những đặc điểm cơ bản về hệ thống y
tế của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trong đó
tập trung vào vai trò nhà nớc, các loại hình bảo hiểm và một số
dịch vụ y tế quan trọng nh chăm sóc sức khỏe ban đầu và chăm
sóc sức khỏe dài hạn. Mỗi quốc gia với những khác biệt về quản
lý hệ thống, thiết lập các trụ cột an sinh và xây dựng các loại
hình dịch vụ y tế sẽ là những mô hình hữu ích để Việt Nam
đánh giá và từng bớc hoàn thiện hệ thống y tế trong nớc.(1)
Từ khóa: Y tế; Hệ thống y tế; Singapore, Trung Quốc, Nhật
Bản, Thụy Điển, Mỹ.
Ngày nhận bài: 2/2/2018; ngày chỉnh sửa: 2/3/2018; ngày duyệt
đăng: 2/4/2018.

Bài viết tập trung mô tả hệ thống y tế của một số quốc gia trong khu
vực và trên thế giới, bao gồm Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Thụy
Điển và Mỹ. Việc lựa chọn các quốc gia này bắt nguồn từ ba nhóm nguyên
nhân sau: thứ nhất, đây là các quốc gia phát triển với hệ thống y tế lâu đời;
thứ hai, việc lựa chọn phân theo khu vực địa lý giúp so sánh những điểm
khác biệt giữa các quốc gia cũng nh những điểm khác biệt trong hệ thống
y tế từng quốc gia về vai trò nhà nớc, loại hình bảo hiểm và cách thức tổ
chức hệ thống cung cấp các dịch vụ y tế; thứ ba, giúp tạo cơ sở để so sánh



78

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 28, số 2, tr. 77-86

với hệ thống y tế của Việt Nam thông qua việc mô tả hệ thống y tế của các
quốc gia đã đợc chọn lựa.
Singapore

Chính phủ giữ vai trò thiết lập, xây dựng kế hoạch, duy trì và phát triển
hệ thống y tế công. Bộ Y tế trực tiếp quản lý hoạt động của hệ thống y tế
và lập kế hoạch cung cấp dịch vụ y tế. Singapore là quốc gia nhỏ nên chính
quyền trung ơng nắm toàn bộ hệ thống y tế. Chính phủ cung cấp bảo
hiểm y tế toàn dân, trong đó, một mặt, đảm bảo hệ thống y tế có chi phí
phải chăng, mặt khác, gắn trách nhiệm của các cá nhân đối với việc chi
trả. Năm 2013, ngân sách nhà nớc dành cho y tế chiếm 1,6% GDP
(Department of Statistics, Singapore, 2013, dẫn theo Liu & Haseltine,
2016). Ngân sách này đợc sử dụng cho các khoản trợ cấp, các cuộc vận
động khuyến khích nâng cao sức khỏe, đào tạo nâng cao năng lực và đầu
t cơ sở hạ tầng.
Singapore cung cấp bảo hiểm y tế phổ quát cho tất cả công dân. Nguồn
tài chính cho loại hình bảo hiểm này bao gồm các khoản trợ cấp chính
phủ, các chơng trình tài trợ đa tầng và các khoản tiết kiệm cá nhân tất
cả các quỹ tài trợ này đều đợc quản lý ở cấp nhà nớc. Chi trả t nhân
chiếm 69% tổng chi phí y tế quốc gia năm 2010, trong đó 10,1% có nguồn
từ bảo hiểm t nhân (WHO, 2013).
Mạng lới cung ứng dịch vụ y tế bao gồm bệnh viện, các cơ sở chăm
sóc y tế, trung tâm chăm sóc và điều dỡng. Bệnh viện ở Singapore chủ
yếu là bệnh viện công, bệnh viện t chỉ chiếm khoảng 20-30% (Mossialos
E. và cộng sự, 2016). Bệnh viện công đợc xếp thành bốn mức, căn cứ trên

mức độ tiện nghi. Bệnh nhân lựa chọn mức cao nhất sẽ nhận đợc dịch vụ
nh bệnh viện t, nhng không đợc trợ cấp. Bệnh nhân lựa chọn các mức
còn lại sẽ nhận đợc mức trợ cấp khác nhau phụ thuộc vào mức độ tiện
nghi và loại hình xét nghiệm. Bệnh viện t nhân cung cấp khoảng 20%
dịch vụ ở mức 2 và mức 3. Hiện nay, khu vực công đang đẩy mạnh liên
kết với khu vực t nhân, bắt đầu từ việc thuê không gian trống của bệnh
viện t để phục vụ bệnh nhân đợc trợ cấp.
Các đơn vị cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu hầu nh là t
nhân, chỉ có một số phòng khám công dành cho ngời có thu nhập thấp.
Singapore có khoảng 1.400 phòng khám t chuyên cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe ban đầu (Ministry of Health, 2013). Hệ thống y tế Singapore
ngày càng đẩy mạnh hợp tác với mạng lới y tế t nhân. Chẳng hạn,
chơng trình Hỗ trợ y tế cộng đồng (bắt đầu năm 2012) cung cấp hình thức
trợ cấp di động cho ngời dân thuộc các hộ gia đình có thu nhập thấp và
trung bình.
Các tổ chức phúc lợi tự nguyện và bệnh viện t nhân cung cấp dịch vụ


Phan Huyền Dân

79

chăm sóc dài hạn cho ngời cao tuổi. Những bệnh nhân đợc chăm sóc
theo hình thức này bắt buộc phải là công dân Singapore hay ngời trên
65 tuổi/bị tàn tật thờng trú ở Singapore. ElderShield là chơng trình bảo
hiểm chăm sóc dài hạn do chính phủ quản lý, nhng đợc vận hành bởi
các công ty bảo hiểm t nhân theo chỉ định của chính phủ. Hàng tháng,
chơng trình này chi trả trực tiếp tiền mặt cho những ngời cao tuổi không
còn khả năng tự chăm sóc bản thân. Hàng năm, Chính phủ cũng hỗ trợ tài
chính để tổ chức các khóa đào tạo chăm sóc ngời già và ngời tàn tật.

Trung Quốc

ở Trung Quốc, chính quyền trung ơng có trách nhiệm chung về luật
pháp, chính sách và quản lý hệ thống y tế quốc gia. Nguyên tắc phổ quát
mà chính phủ đa ra là mọi công dân đều đợc hởng các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ cơ bản. Chính quyền địa phơng có trách nhiệm cung cấp
dịch vụ y tế tùy theo hoàn cảnh địa phơng. Các cơ quan y tế bao gồm ủy
ban Y tế và Kế hoạch hóa gia đình Quốc gia và các ủy ban Y tế và Kế
hoạch hóa gia đình địa phơng có trách nhiệm chính trong việc tổ chức và
cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế, đồng thời giám sát các đơn vị cung cấp
dịch vụ (chủ yếu là bệnh viện). Thông thờng, chính quyền địa phơng
cung cấp và chi trả bảo hiểm y tế (Fang, 2016).
Năm 2013, Trung Quốc chi khoảng 5,6% tổng sản phẩm quốc nội cho
chăm sóc y tế, trong đó 30% do chính quyền địa phơng chi trả và 36%
hay từ nguồn bảo hiểm y tế công, bảo hiểm y tế t nhân hay nguồn
quyên góp vì sức khoẻ xã hội (National Health and Family Planning
Commission, 2014). Năm 2014, tổng chi phí cho bảo hiểm y tế chiếm
khoảng 10% tổng chi phí bảo hiểm (cả công và t) (Zhao và cộng sự,
2015).
Bảo hiểm y tế công có ba loại: 1) bảo hiểm cơ bản dựa trên việc làm ở
đô thị (năm 1998); 2) bảo hiểm cơ bản cho dân c ở đô thị (năm 2009);
và 3) chơng trình y tế hợp tác mới cho c dân nông thôn (năm 2003). Bảo
hiểm cơ bản dựa trên việc làm ở đô thị chủ yếu đợc chi trả từ thuế thu
nhập của ngời lao động và ngời sử dụng lao động, Chính phủ chỉ tài trợ
ở mức tối thiểu. Ngời lao động ở thành thị bắt buộc phải tham gia bảo
hiểm này. Bảo hiểm cơ bản dành cho c dân đô thị hoàn toàn mang tính
tự nguyện ở cấp hộ gia đình. Cả hai loại bảo hiểm này đều do Bộ Nhân lực
và An sinh Xã hội quản lý và chính quyền địa phơng điều hành. Chơng
trình y tế hợp tác mới cũng là một loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện ở cấp
hộ gia đình do ủy ban Quốc gia về Y tế và Kế hoạch hóa Gia đình quản

lý và chính quyền địa phơng điều hành. Loại hình này bao phủ tới 98,7%
dân số nông thôn vào năm 2013 (National Health and Family Planning
Commission, 2014). Bảo hiểm y tế công gần đạt mức phổ cập, khoảng
95% dân số kể từ năm 2011 (Jiang & Ma, 2015).


80

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 28, số 2, tr. 77-86

Ngời dân có thể mua bảo hiểm y tế t nhân bổ sung để chi trả các
khoản khấu trừ và các khoản không thuộc phạm vi bảo hiểm y tế công. Bảo
hiểm y tế t nhân chủ yếu do các công ty vì lợi nhuận cung cấp. Trung
Quốc khuyến khích phát triển thị trờng này, vì vậy, bảo hiểm t nhân có
mức tăng trởng khá nhanh và có thêm nhiều công ty nớc ngoài lấn sân
vào thị trờng bảo hiểm.
ở Trung Quốc, bệnh viện có bốn loại hình cơ bản: bệnh viện công,
bệnh viện t, bệnh viện vì lợi nhuận và bệnh viện phi lợi nhuận. Bệnh viện
công chiếm khoảng 55%, bệnh viện t chiếm khoảng 45% tổng số bệnh
viện trên cả nớc. Bệnh viện ở khu vực nông thôn thờng là bệnh viện
công, còn ở khu vực thành thị thì có cả bệnh viện công và t. Bệnh viện
tuyến xã ở nông thôn và bệnh viện cộng đồng ở thành thị thờng chỉ đợc
coi là cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu nên mô hình giống nh trạm y tế
thôn hơn là bệnh viện thực sự.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu của Trung Quốc đợc cung cấp bởi
cả khu vực nhà nớc và khu vực t nhân. Dịch vụ chủ yếu đợc thực hiện
ở cấp cơ sở bởi đội ngũ bác sĩ cấp thôn, nhân viên y tế ở các trạm y tế địa
phơng, bác sĩ đa khoa tuyến xã ở nông thôn, bệnh viện cộng đồng ở thành
thị, bệnh viện tuyến 2, tuyến 3. Bác sĩ và nhân viên y tế ở trạm y tế thôn
hay sống cùng địa bàn với bệnh nhân, nên họ thờng tình nguyện khám

chữa bệnh ngoài giờ nếu cần. Bệnh viện tuyến xã ở nông thôn và bệnh viện
tuyến 2, tuyến 3 ở thành thị đều có phòng và khoa cấp cứu, vì thế góp phần
làm giảm nhu cầu bệnh nhân tìm đến các phòng khám t. Khoa cấp cứu
không yêu cầu sàng lọc bệnh nhân, vì thế, bệnh nhân có thể tới thăm khám
bất kì lúc nào. Bệnh viện công tuyến trung ơng thờng không hỗ trợ dịch
vụ khám bệnh ngoài giờ, vì đã có bệnh viện tuyến dới.
Theo truyền thống Trung Quốc, gia đình có trách nhiệm chăm sóc sức
khoẻ dài hạn cho bệnh nhân, vì vậy, ở Trung Quốc, có rất ít cơ sở y tế chính
thức cung cấp dịch vụ này. Những ngời thực hiện chăm sóc sức khoẻ
trong gia đình không thuộc đối tợng đợc hỗ trợ về tài chính hay u đãi
thuế. Bảo hiểm chăm sóc dài hạn gần nh không tồn tại, vì vậy, chi phí
chăm sóc ở các trung tâm chăm sóc y tế dài hạn chủ yếu do bệnh nhân tự
chi trả. Điều kiện vật chất ở các trung tâm này còn cùng kiệt nàn; còn ở các
trung tâm cao cấp thì bệnh nhân phải xếp hàng dài để đợc thăm khám.
Theo Cục Thống kê quốc gia (2014), năm 2013, có khoảng 4,94 triệu
giờng bệnh dành cho ngời già khuyết tật.
Nhật Bản

Chính phủ kiểm soát gần nh toàn bộ các lĩnh vực của hệ thống bảo
hiểm y tế công (PHIS). Chính phủ đa ra quy định về chi phí khám chữa
bệnh và trợ cấp cho chính quyền địa phơng, ngời mua bảo hiểm và các
công ty bảo hiểm. Với Nhật Bản, việc đảm bảo một hệ thống y tế chất


Phan Huyền Dân

81

lợng cao và phù hợp nhu cầu của ngời dân đợc quy định cụ thể trong
luật pháp. Hơn 1.700 địa bàn thực hiện các hợp phần PHIS và bảo hiểm

chăm sóc y tế dài hạn, đồng thời tổ chức những hoạt động nhằm nâng cao
sức khoẻ cho cộng đồng (Tatara & Okamoto, 2009).
Năm 2013, chi phí chăm sóc y tế chiếm khoảng 10% GDP, 83% trong
số đó đợc bảo hiểm y tế công chi trả thông qua hệ thống PHIS (OECD,
2015). Trong hệ thống bảo hiểm y tế công, phí bảo hiểm, trợ cấp trích từ
thuế và khoản do bệnh nhân tự chi trả chiếm lần lợt là 49%, 38% và 12%
của tổng chi phí chăm sóc y tế (MHLW, 2014a).
Công dân Nhật Bản bắt buộc phải tham gia một hình thức bảo hiểm
PHIS nào đó tùy vào tình trạng việc làm và/hay nơi c trú, những ngời
không phải là công dân nhng c trú dài hạn cũng phải tham gia PHIS.
Những ngời không duy trì bảo hiểm y tế sẽ phải trả phí bằng hai năm bảo
hiểm khi họ đăng ký tham gia trở lại. Ngời đợc hởng trợ cấp xã hội
nghiễm nhiên đợc hởng bảo hiểm y tế công. Công dân và những ngời
không phải là công dân nhng c trú dài hạn có tham gia PHIS dành cho
lứa tuổi trên 40 bắt buộc phải tham gia bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ dài
hạn.
ở Nhật, bệnh viện công chỉ cung cấp khoảng 20% số giờng nằm,
bệnh viện t phi lợi nhuận cung cấp tới gần 80% số giờng nằm. Một số
bệnh viện t và phi lợi nhuận vẫn nhận đợc trợ cấp nhà nớc vì có yếu
tố công trong đó. Chính phủ ngăn chặn không cho các công ty vì lợi nhuận
lấn sân vào lĩnh vực bệnh viện. Chỉ có các bệnh viện do công ty vì lợi
nhuận lập ra dành cho nhân viên của mình mới đợc phép hoạt động.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Nhật chủ yếu do t nhân cung
cấp. Hầu hết các phòng khám và khoa khám bệnh ngoại trú của bệnh viện
đều cung cấp dịch vụ này. Sở hữu các phòng khám đa số là bác sĩ hay các
tập đoàn y tế (đây là các thực thể pháp lý đặc biệt trong quản lý chăm sóc
y tế, thờng thuộc sở hữu của bác sĩ, vì thế bác sĩ cũng là những ngời
kiểm soát các phòng khám và bệnh viện này). Dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu nằm trong diện bảo hiểm toàn dân. Chi phí chăm sóc sức khoẻ ban
đầu đợc tính toán dựa trên hệ thống tính phí dịch vụ y tế áp dụng trên

phạm vi cả nớc.
Các tỉnh thành có trách nhiệm quản lý Bảo hiểm y tế dài hạn bắt buộc
cấp quốc gia (LTCI) dành cho ngời trên 65 tuổi và ngời khuyết tật từ 40
đến 64 tuổi. Bảo hiểm này chi trả cho dịch vụ chăm sóc tại nhà, các thiết
bị hỗ trợ dành cho ngời khuyết tật và chi phí sửa nhà. Các dịch vụ y tế
nh chăm sóc giảm nhẹ thơng tật, chăm sóc y tế cuối đời ở bệnh viện
hay các dịch vụ y tế khác nằm trong dịch vụ chăm sóc tại nhà sẽ do bảo
hiểm y tế công chi trả, còn dịch vụ dỡng lão do LTCI chi trả.
Năm 2013, phần lớn các đơn vị cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà


82

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 28, số 2, tr. 77-86

đều là t nhân, 64% là công ty vì lợi nhuận và 35% là phi lợi nhuận
(MHLW, 2014b). Mặc dù các công ty vì lợi nhuận không đợc phép cung
cấp các dịch vụ y tế theo định chế LTCI, ngời dân vẫn có thể tự chi trả
để sử dụng dịch vụ dỡng lão t nhân (MHLW, 2013).
Trợ cấp nghỉ làm để chăm sóc ngời thân trong gia đình (nằm trong
bảo hiểm lao động) đợc thanh toán lên tới ba tháng kể từ khi nhân viên
xin nghỉ để chăm sóc cho ngời thân (Kwon, 2014, dẫn theo Matsuda, R.
2016).
Thụy Điển

ở Thụy Điển, chính quyền cả ba cấp quốc gia, khu vực và cơ sở đều
tham gia xây dựng hệ thống chăm sóc y tế. ở cấp quốc gia, Bộ Y tế và các
vấn đề xã hội phối hợp với 8 cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm chung
về vấn đề y tế và các chính sách chăm sóc y tế. ở cấp khu vực, 12 hội đồng
tỉnh thành và 9 cơ quan trực thuộc vùng chịu trách nhiệm hỗ trợ tài chính

và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho ngời dân. ở cấp cơ sở, 290
huyện thị chịu trách nhiệm đối với dịch vụ chăm sóc ngời già và ngời
khuyết tật. Hiệp hội chính quyền cơ sở và khu vực SALAR là thay mặt của
chính quyền cấp khu vực và cấp cơ sở của Thụy Điển (Glenngard, 2016).
Năm 2013, chi phí y tế của Thụy Điển chiếm tới 11% GDP. Khoảng
84% trong số đó là từ nguồn tài chính công (57% là từ Hội đồng tỉnh
thành, 25% từ chính quyền cơ sở và 2% từ chính quyền trung ơng)
(Statistics Sweden, 2015). Trợ cấp chính phủ nhằm tái phân bổ các nguồn
lực giữa các tỉnh thành và địa phơng. Trợ cấp chính phủ cũng hỗ trợ tài
chính cho các sáng kiến cải tiến chất lợng dịch vụ y tế (Glenngard,
2016).
Bảo hiểm y tế công có tính toàn dân và tự động. Tất cả bệnh nhân thuộc
các nớc trong Liên minh châu Âu, khu vực kinh tế chung châu Âu và 9
nớc ký hợp tác song phơng với Thụy Điển đều đợc hởng bảo hiểm
cấp cứu. Trẻ em tị nạn hay cha có giấy tờ đợc hởng dịch vụ chăm sóc
y tế giống nh trẻ em là c dân thờng trú tại Thụy Điển. Ngời tị nạn
trởng thành chỉ đợc hởng các dịch vụ y tế không thể trì hoãn nh chăm
sóc thai sản. Ngời không có giấy tờ chỉ đợc sử dụng dịch vụ chăm sóc
y tế khẩn cấp và không đợc hởng trợ cấp chính phủ.
Bảo hiểm y tế t nhân dới dạng bảo hiểm bổ sung chiếm cha tới 1%
tổng chi phí chăm sóc y tế. ý nghĩa chính của bảo hiểm t nhân là giúp
bệnh nhân có thể gặp bác sĩ chuyên khoa để điều trị tự chọn mà không
phải chờ đợi.
Thụy Điển có tổng cộng 7 bệnh viện trực thuộc các trờng đại học và
hơn 70 bệnh viện thuộc quản lý của Hội đồng tỉnh thành. 6 trong số 7 bệnh
viện đó thuộc sở hữu t nhân và 3 trong số đó là phi lợi nhuận, số còn lại


Phan Huyền Dân


83

là bệnh viện công. Mỗi tỉnh thành chia thành 6 vùng chăm sóc y tế để duy
trì hợp tác và thúc đẩy phát triển mô hình chăm sóc sức khoẻ tiên tiến.
Những dịch vụ chăm sóc y tế chuyên sâu thờng yêu cầu những thiết bị
hiện đại nhất và tập trung chủ yếu ở bệnh viện trực thuộc các trờng đại
học với mục đích tập trung phát triển y tế chuyên sâu mạnh mẽ ở các trung
tâm y tế học thuật, tạo ra cơ hội phát triển và nghiên cứu.
Hệ thống y tế Thụy Điển mang tính lồng ghép cao. Khoảng 60% cơ sở
y tế công và 40% cơ sở y tế t nhân cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu. Mô hình phổ biến của dịch vụ này bao gồm một đội với khoảng
bốn bác sĩ đa khoa, y tá, hộ lý, bác sĩ vật lý trị liệu, bác sĩ tâm lý, bác sĩ
phụ khoa. Ngời dân có thể đăng kí khám chữa bệnh với bất kì cơ sở y tế
nào (cả công và t) đợc cấp phép. Các cơ sở y tế (cả công và t) đều nhận
đợc khoản thanh toán hỗn hợp, trong đó có 2-3% cho chất lợng khám
chữa bệnh (Glenngard, 2016).
Chính quyền cơ sở có trách nhiệm cung cấp tài chính và tổ chức dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ dài hạn cho ngời lớn tuổi và hỗ trợ ngời khuyết
tật trong địa bàn quản lý. Bộ luật dịch vụ xã hội quy định ngời cao tuổi
có quyền đợc hởng các dịch vụ và hỗ trợ từ xã hội bao gồm tiền trợ giúp
chăm sóc tại nhà và đồ ăn. Ngời cao tuổi cũng đợc hỗ trợ chăm sóc cuối
đời dù họ ở nhà riêng, trại dỡng lão hay bệnh viện. Chính sách quốc gia
thúc đẩy dịch vụ hỗ trợ và chăm sóc tại nhà giúp cho ngời già sống ở nhà
riêng của họ lâu nhất có thể. Chính quyền cơ sở có thể trực tiếp hoàn lại
chi phí cho những ngời chăm sóc phi chính thức (gọi là phụ cấp chăm
sóc ngời thân) hay thuê họ thực hiện chăm sóc.
Mỹ

Tại Mỹ, Bộ luật Chăm sóc y tế với giá cả phải chăng (ACA) đợc ban
hành năm 2010 đã thiết lập trách nhiệm chia sẻ giữa chính phủ, ngời

sử dụng lao động và các cá nhân nhằm đảm bảo tất cả công dân Mỹ đều
đợc tiếp cận với dịch vụ bảo hiểm y tế chất lợng cao có giá cả hợp lý.
Trung tâm Dịch vụ Medicare và Medicaid (CMS) quản lý chơng trình
Medicare (Bảo hiểm liên bang dành cho ngời trên 65 tuổi, ngời khuyết
tật hay có hoàn cảnh đặc biệt), đồng thời phối hợp với chính quyền tiểu
bang để quản lý Medicaid (bảo hiểm hỗ trợ chi phí y tế cho ngời có thu
nhập và tài sản hạn chế) và Chơng trình bảo hiểm y tế dành cho trẻ em.
Đây là một tập hợp các chơng trình giữa chính quyền liên bang và chính
quyền tiểu bang dành cho dân số có thu nhập thấp (The Commonwealth
Fund, 2016).
Năm 2013, chi phí y tế công chiếm khoảng 48% tổng chi phí y tế nói
chung (OECD, 2015). Chơng trình Medicare có nguồn tài chính từ thuế
tiền lơng, phí bảo hiểm và nguồn thu của chính phủ liên bang. Medicaid
đợc gây quỹ từ thuế và do các tiểu bang quản lý. Các tiểu bang nhận tài


84

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 28, số 2, tr. 77-86

trợ từ chính phủ liên bang cho chơng trình Medicaid theo tỉ lệ tơng ứng
với thu nhập bình quân đầu ngời của mỗi tiểu bang. Việc mở rộng
chơng trình Medicaid theo Bộ luật ACA đợc chính phủ liên bang hỗ trợ
tài chính toàn bộ cho đến năm 2017 và giảm xuống 90% từ 2017 đến
2020.
Năm 2014, Mỹ có 33 triệu ngời không tham gia bảo hiểm, chiếm
10,4% dân số (U.S. Census Bureau, 2014). Sau đó, Mỹ áp dụng Bộ luật
ACA, với những cải cách bao gồm: yêu cầu gần nh tất cả ngời Mỹ phải
mua bảo hiểm y tế; mở cửa thị trờng bảo hiểm y tế mang lại nguồn trợ
cấp phí bảo hiểm cho những ngời thu nhập trung bình và thu nhập thấp;

mở rộng chơng trình Medicaid ở các tiểu bang giúp tăng phạm vi bảo
hiểm cho ngời thu nhập thấp. Theo dự kiến đến năm 2018, việc áp dụng
Bộ luật ACA sẽ làm giảm 24 triệu ngời không có bảo hiểm y tế (CBO,
2015).
Năm 2013, chi phí cho bảo hiểm y tế t nhân chiếm 33% tổng chi phí
chăm sóc y tế (CMS, 2015). Năm 2014, thị trờng bảo hiểm y tế do nhà
nớc liên bang và tiểu bang quản lý đợc thành lập nhằm cung cấp thêm
một hớng tiếp cận bảo hiểm y tế t nhân dành cho ngời có thu nhập
trung bình và thu nhập thấp. Ngoài ra, các bang cũng tham gia vào chơng
trình mở rộng đối tợng Medicaid đợc nhận trợ cấp liên bang.
Bệnh viện có thể tồn tại dới hình thức phi lợi nhuận (cung cấp khoảng
70% giờng bệnh trên cả nớc), vì lợi nhuận (15% giờng bệnh) hoặc
bệnh viện công (15% giờng bệnh). Bệnh viện công có thể phục vụ bệnh
nhân không tham gia bảo hiểm.
Cũng tùy quy định của từng chơng trình bảo hiểm mà bệnh nhân có
thể dễ dàng hay gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn khám bác sĩ chuyên
khoa. Đặc biệt đối với ngời tham gia chơng trình Medicaid và ngời
không tham gia bảo hiểm thì việc hẹn khám với bác sĩ chuyên khoa gặp
khó khăn hơn, trớc hết vì mạng lới an sinh dành cho dịch vụ chăm sóc
chuyên khoa khá hạn chế, ngoài ra một số bác sĩ chuyên khoa từ chối tiếp
bệnh nhân thuộc chơng trình Medicaid vì tỉ lệ hoàn phí thấp.
Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ dài hạn đợc cung cấp bởi cả công ty vì lợi
nhuận và phi lợi nhuận. Medicaid chơng trình có phạm vi bảo hiểm
chăm sóc sức khỏe dài hạn rộng nhất - yêu cầu ngời tham gia đợc chứng
thực có đủ điều kiện tham gia, vì thế, bệnh nhân thờng xuyên cắt bớt tài
sản của họ để đủ điều kiện tham gia chơng trình chăm sóc sức khoẻ dài
hạn. Hầu hết các cơ sở điều dỡng có giấy phép đều là cơ sở y tế vì lợi
nhuận (chiếm 69%), chỉ có 24% là phi lợi nhuận và 6% là của Chính phủ
(Henry J. Kaiser Family Foundation, 2015). Một số bang có chơng trình
hỗ trợ ngời chăm sóc phi chính thức và ngân sách y tế giúp đỡ bệnh nhân

sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà. Tuy nhiên, hầu hết những ngời


Phan Huyền Dân

85

chăm sóc phi chính thức đều không đợc nhận các khoản tiền hay u đãi
khi họ chăm sóc ngời thân.
Kết luận

Từ những mô tả về hệ thống y tế của một số nớc trong khu vực và trên
thế giới, có thể thấy mỗi quốc gia có sự phân quyền trong quản lý hệ
thống, thiết lập các trụ cột an sinh và xây dựng các loại hình dịch vụ y tế
với rất nhiều điểm riêng biệt. Chính quyền trung ơng Singapore nắm toàn
bộ hệ thống y tế, đẩy mạnh mạng lới y tế t nhân, đồng thời xây dựng hệ
thống chân vạc bảo hiểm công 3Ms vững chãi. Trung Quốc chú trọng
mạng lới y tế cơ sở và hoàn thành cơ bản mục tiêu mọi công dân đều
đợc hởng các dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản. Chính phủ Nhật Bản kiểm
soát hầu nh toàn bộ hệ thống y tế, nhng cung cấp phần lớn dịch vụ y tế
là các bệnh viện t phi lợi nhuận. Hệ thống y tế Thụy Điển mang tính lồng
ghép cao và tập trung phát triển y tế chuyên sâu ở các trung tâm y tế học
thuật. Mỹ quản lý hệ thống y tế ở hai cấp liên bang và tiểu bang, với những
nỗ lực không ngừng trong việc mở rộng phạm vi bảo hiểm hớng tới đối
tợng có thu nhập trung bình và thấp, từ đó nâng cao tỉ lệ ngời tham gia
bảo hiểm. Những đặc điểm riêng biệt đó là những mô hình hữu ích để Việt
Nam đánh giá và từng bớc hoàn thiện hệ thống y tế trong nớc.n
Chú thích
Bài viết là sản phẩm của Đề tài cấp Bộ Nghiên cứu khả năng tiếp cận các
dịch vụ khám chữa bệnh có chất lợng của gia đình Việt Nam hiện nay (Mã số:

KHXH-GĐ/16-19/11). Đề tài thuộc Chơng trình Nghiên cứu, đánh giá tổng thể
về gia đình thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nớc và hội nhập quốc tế
của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
(1)

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top