Download miễn phí Tiểu luận Tìm hiểu về tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và nhà nước hiện nay giải quyết như thế nào





Tư tưởng dân chủ dân là chủ của đất nước của nhà nước của xã hội chủ vận mệnh của chính mình là tư tưởng mới mẻ chưa có trong tư tưởng truyền thống của dân tộc ta, càng chưa có trong tư tưởng nho giáo. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh xuất hiện và được khẳng định sau khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cách mạng tháng Tám 1945 thành công.
Cách mạng tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mưới thế kỷ đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm đã đưa chính quyền lại cho nhân dân đã xây nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa độc lập tự do hạnh phúc. Đó là công cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta. Cách mạng tháng Tám thắng lơi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Thủy nêu lên một bài học phản diện về An Dương Vương chủ quan mất cảnh giác, chỉ dựa vào vũ khí, không dựa vào sức mạnh của dân để chống giặc ngoại xâm thì kết cục là mất nước và dòng họ cũng tuyệt diệt. Khi dân đã bất mãn, “nổi can qua” – nghĩa là đứng lên khởi nghĩa, làm cách mạng thì có thể lật dổ một triều đâị, một chế độ xã hội, không chỉ làm cho “con vua thất thế phải ra quét chùa” mà còn đưa chính nhà vua lên đoạn đầu đài như trường hợp của Cách mạng Anh thế kỷ XVII và Cách mạng Pháp thế kỷ XVIII. Sức mạnh của dân không chỉ thể hiện ở lực lượng vật chất mà còn cả ở tinh thần, ở tư tưởng, ở dư luận. “Miệng dân sóng bể” nghĩa là dư luận của quần chúng từ người này, chỗ này sang người khác, chỗ khác và tư tưởng của nhân dân thể hiện trong văn học dân gian ( folklore) – truyền từ đời nọ sang đời kia, có sức mạnh như những đợt sóng bể có thể nâng dỡ hay nhấn chìm một viên quan, một ông vua hay một triều đại nào đó.
Mỗi triều đạt phong kiến Việt Nam thời kỳ đang lên và hưng thịnh đều có quan điểm về dân và mối quan hệ với dân đúng đắn, tích cực nên đã được dân ủng hộ, tập trung được sức mạnh của dân, đánh thắng được giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng được đất nước, đồng thời cũng củng cố được vương triều đó vững mạnh.
Nhà Trần thế kỷ XVIII đã ba lần đại thắng quân xâm lược Nguyên – Mông hung hãn. Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi đó, như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã ghi rõ “ Vua tui đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. “Cả nước góp sức” chính là sức mạnh của toàn dân đã được huy động. Trần Quốc Tuần còn nêu lên một tư tưởng đặc sắc khi ông khuyến tấu vua Trần: “ Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”.
Đầu thế kỷ XI, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược, xây dượng lực lượng thường trực khá đông, có súng thần cơ, có nhiều chiến thuyền, nhưng không đoàn kết được toàn dân, long dân ly tán, nên đã thất bạ, cha con Hồ Quý Ly đều bị giặc Minh bắt. Đúng như Hồ Nguyên Trừng đã: “ tui không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi.”
Nguyễn Trãi, một nhà văn hóa lớn, một anh hung của dân tộc ta thế kỷ XV, đã nêu ra những tư tưởng sâu sắc về vai trò và sức mạnh của dân. Sauk hi cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh thắng lợi, ông viết bài “Bình Ngô đại cáo” hung tráng với hai câu mở đầu về tư tưởng an dân thì trước hết phải trừ bạo ngược:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh đã được Nguyễn Trãi chỉ ra là do đoàn kết được tướng sĩ, tập hợp lực lượng dân chúng khắp nơi:
“ Nên hiệu gậy làm cờ, tập hợp khắp bốn phương dân chúng.
Thiết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một hạng cha con”.
Nói về sức mạnh của dân, ông đã tiếp thụ và nêu lên tư tưởng tiến bộ, ví dân như nước, các triều đại phong kiến như những con thuyền; thuyền nỗi được là nhờ nước. Nước có tác dụng chở thuyền nhưng cũng có sức mạnh lật thuyền: “Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”.
Ông còn nêu lên tư tưởng ơn dân rất mới mẻ đối với thời đại lúc bấy giờ: “ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. “Kẻ cấy cày” chính là nhân dân lao động, là nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư trong một nước nông nghiệp. Kế tục tư tưởng của Trần Quốc Tuấn, ông yêu cầu vua quan triều đình phải biết “Thương yêu dân chúng, nghĩ làm những việc khoan dân”. Ông khẳng định tư tưởng về thái bình thịnh trị: “Cái gốc của nhạ là ở thôn vắng không có một tiếng giận hờn oán sầu”. Ông chỉ rõ trách nhiệm của người cầm quyền: “Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công bằng… đổi bỏ thói tham ô, sửa trừ tệ lười biếng, coi công việc của quốc gia là công việc của mình; lấy điều lo của dân sinh là điều lo thiết kỳ”.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm “Thiên nhân tương cảm”, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam coi lòng dân là ý trời và rất quan tâm tới việc kết hợp lòng dân với ý trời. Họ quan niệm lòng dân tức là ý trời được thể hiện ở các điềm lành (mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt) hay điềm dữ (bện tật, mưa bão, lũ lụt, mất mùa…) Người cầm quyền cai trị có đức, làm việc tốt, hợp lòng dân thì trời xuống điềm lành; không có đức, ăn chơi xa xỉ, hoang phí, hại dân, dân oán thì trời xuống điềm dữ để răn bảo.
Khi đã có điềm tai dị của trời tức là dân oán, thì các quan đại thần, những nhà trí thức của các triều đại, am hiểu về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” biết thương xót dân chúng thường dân sớ khuyên nhủ vua chúa sửa lỗi để không giáng tai họa nữa.
Trạng nguyên Giáp Hải, quan đại thần đời Mạc Mậu Hợp, thấy chính sách của nhà Mạc ngày một kém, điềm tai biến ngày một nhiều, gặp khi có bão lớn, ông dâng sơ lên vua Mạc, nói rằng: “Trời ra tai không phải vô cớ, chính ở người mà ra. Tai biến về gió bão là trời hiện điềm để răn bảo…Vậy xin bệ hạ lấy sự biến của trời là đáng sợ, coi nhân sự là cần sửa…thi hành mọi điều khoan tất cho dân; ban ra ân dụ để tha những dân vô tội bị ức hiếp; đặc biệt sai quan sở tại thăm nom giúp đỡ luôn. Có thế, ơn của trên ban xuống mới thấm đến kẻ dưới. Lòng người đã vui, tai trời sẽ hết…Xin bệ hạ tôn trọng gốc nước, cố kết lòng dân, hậu đãi mà đừng làm khốn dân; giúp đỡ mà đừng làm hại dân, dè dặt chứ không dùng hết sức của dân, nhẹ bớt cho dân những việc phục dịch tức là chính sách của vương đạo đó”.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì thời Lê – Trịnh, khi đi sứ về, thường thấy tai dị, đã dâng khải tâu Chúa, nói về trách nhiệm của triều đình và tố cáo bọn quan lại tham nhũng ở các địa phương làm cho dân khốn khổ: “dân dân đều một lẽ, lòng dân vui thì thuận ý trời. Nên người giỏi trị nước phải yêu dân như cha mẹ yêu con: nghe thấy dân đói rét phải lo, trông thấy dân vất vả phải thương, cấm chính thể hà khắc tàn bạo, cấm việc tự tiện thu thuế, để dân được sinh sống thỏa mái, không có tiếng sầu giận thở than. Đó mới là biết đạo trị nước. nay thánh thượng để ý đến dân, ra một chính sách gì là cốt để nuôi dân, thi hành một lệnh gì là cốt ngừa sự nhiễu dân; lòng yêu dân thật như độ lượng của trời đất cha mẹ.
Đại thần Ngô Đình Chất tố cáo bọn quan lại các địa phương chỉ chăm làm việc cay nghiệt, vét hết của cải của dân khiến dân sầu khổ, ông dâng bản điều trần bề trên thương dân, nuôi dân một mảy may nào tiện cho dân cũng nên làm, một mối tệ hại cho dân nào cũng nên bỏ. Lại càng nên ban nhân chính cho dân. Như thế thì người dân đội ơn mà mừng, người xa nghe tiếng mà đến ấy là được lòng dân.
Đại thần Ngô Trí Hòa đã cùng đại thần Lê Tri Bật vào năm 1618 làm tờ khải dâng chúa Trịnh điều trần về chính sách trị dân của triều đình gồm có sáu việc có lợi cho dân.
Cuối thế kỷ thứ XX, ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top