Download Tiểu luận Quy luật Lượng – Chất của triết học Mác-Lênin và sự vận dụng trong quá trình phát triển ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam miễn phí





Có th ể nói sự tách biệt chức năng quản lý nhà nước và ch ức năng quản lý sản xuất kinh doanh trong ngành Bưu điện là công vi ệc hết sức khó khăn, lâu dài và n ếu thành công sẽ tạo điều kiện để mỗi đơn vị làm t ốt hơn nhiệm vụ của mình: Tổng cục Bưu điện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông; T ổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam tập trung vào ho ạt động sản xuất kinh doanh, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo sự thành công c ủa mình. Chính sự thay đổi này đã làm cơ chế tập trung quan liêu bao cấp từng bước được đẩy lùi , thị trường bưu chính viễn thông phát triển mạnh mẽ hơn. Bưu điện Việt nam mà trong đó có vai trò quy ết định của VNPT đã đạt được những thành t ựu quan trọng được Liên minh Viễn thông Quốc tế xếp vào hàng ng ũ những nước có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới, được bầu làm thành viên c ủa Hội đồng Điều hành Liên minh Vi ễn thông Qu ốc tế đồng thời là thành viên c ủa Ban chấp hành Đại Hội đồng Điều hành của Liê n minh Bưu chính Quốc tế.



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

c .
Thuộc tính là m ột khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó được bộc lộ ra trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác. Đặc trưng khách quan nói trên quy định cách nhận thức của con người đối với chất của sự vật. Để nhận thức được những thuộc tính, từ đó nhận thức được chất của sự vật, chúng ta cần nhận thức nó trong m ối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính (một khía cạnh về chất) của sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp tất cả các thuộc tính vốn có của nó, chúng ta phải nhận thức sự vật trong tổng hợp các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với sự vật khác.
Mỗi sự vật có muôn vàn thu ộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật cũng có một phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa là m ỗi sự vật có vô vàn ch ất. Cho nên khi d iễn đạt tính không th ể tách rời giữa chất và s ự vật cũng như tính nhiều chất của nó. Ph. Ăng ghen cho rằng, những chất lượng không tồn tại, mà nh ững sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn ch ất lượng mới tồn tại.
6
Mỗi sự vật có vô vàn thu ộc tính. Các thuộc tính khác nhau có vị trí không như nhau, trong đó, có thuộc tính cơ bản và thu ộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành ch ất cơ bản của sự vật. Ở mỗi một sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là lo ại chất mà s ự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.
Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn b ởi cấu trúc của sự vật, bởi cách liên k ết giữa các yếu tố cấu thành s ự vật đó. Trong tự nhiên và trong xã h ội có không ít sự vật, mà xét riêng v ề các y ếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất. Việc nắm được tính cấu trúc của sự vật cho phép hiểu được vì sao sự thay đổi hay mất đi của một số thuộc tính này hay thu ộc tính khác của sự vật nhưng không trực tiếp dẫn đến thay đổi chất của nó. Chẳng hạn, ngày nay do ti ến bộ khoa học – công ngh ệ, do đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động … mà s ự quản lý trực tiếp của nhà tư bản đối với doanh nghiệp có xu hướng giảm, giai cấp tư sản ở một số nước thực hiện chủ trương cổ phần hóa một bộ phận cho những người lao động, trung lưu hóa một bộ phận đáng kể dân cư, nhưng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất vẫn tồn tại, quan hệ giữa tư bản với lao động vẫn là quan h ệ bóc lột và b ị bóc lột. Bởi vì, quan hệ quản lý, quan h ệ phân phối vẫn do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa quy định. Có th ể nói, tuy có một số thay đổi như nêu trên, nhưng ở các nước đó, chủ nghĩa tư bản vẫn là ch ủ nghĩa tư bản.
Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất của sự vật không chỉ phụ thuộc vào s ự thay đổi những yếu tố cấu thành, nó còn ph ụ thuộc vào s ự thay đổi cách liên k ết giữa các yếu tố đó.
Tính xác định về chất của một loại đối tượng nào đó là tính như nhau của các đối tượng đó. Giữa các đối tượng thuộc cùng lo ại có thể có sự khác nhau về lượng. Chúng có thể lớn hơn hay nhỏ hơn, chúng có thể khác nhau về thể tích, về đại lượng…
Như vậy ngoài tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào c ũng có tính quy
định về lượng. Đối với các đối tượng cùng lo ại, lượng là cái nói lên m ặt đồng nhất giữa chúng. Trong thực tế, như trên đã đề cập, ngay các đối tượng cùng lo ại cũng
7
có nhi ều thuộc tính không như nhau. Từ những đối tượng vốn rất đa dạng đó, muốn tìm ra sự đồng nhất để từ đó đi đến ý niệm về lượng, đòi h ỏi phải có sự trừu tượng hóa, tư duy bỏ qua tất cả những sự khác nhau vốn có thật của các đối tượng cùng lo ại.
Lượng là m ột phạm trù tri ết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát tri ển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó. Lượng được thể hiện thành s ố lượng, đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của sự vận động và phát tri ển – tức là được thể hiện trong các thu ộc tính không gian, thời gian của các sự vật và hi ện tượng.
Lượng cũng mang tính khách quan, con người không thể sáng tạo ra hay hủy bỏ được lượng của sự vật. Những đặc trưng về lượng (đặc biệt là đại lượng) cũng được biểu hiện trong những mối quan hệ nhất định.
Trong thực tế có những thuộc tính về lượng của sự vật không thể biểu thị một cách chính xác bằng số lượng hay đại lượng. Thí dụ, trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất tư cách đạo đức của một người … Trong những trường hợp như thế, để có tri thức đúng đắn về lượng phải có sự trừu tượng hóa cao với một phương pháp khoa học.
Không ch ỉ chất mà ngay c ả thuộc tính về chất cũng có tính quy định về lượng. Do vậy, một sự vật có vô vàn lượng.
II. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG VÀ THAY ĐỔI VỀ CHẤT
Trong quá trình v ận động và phát tri ển của sự vật, chất và lượng đều biến đổi. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào c ủa lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản về chất của sự vật đó. Song sự thay đổi của lượng chỉ chưa dẫn tới thay đổi của chất trong những giới hạn nhất định. Vượt qua giới hạn đó, cũng có thể làm cho s ự vật không còn là nó, ch ất cũ mất đi, chất mới ra đời.
8
Giới hạn, trong đó những thay đổi về lượng của sự vật chưa gây ra nh ững thay đổi căn bản về chất được gọi là “độ”.
Độ là m ột phạm trù tri ết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và ch ất, nó là kho ảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Điểm mà t ại đó, sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện được gọi là “điểm nút”. Bất kỳ độ nào c ũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút s ẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và ch ất mới tạo thành m ột độ mới với điểm nút mới. Sự vận động và phát tri ển là không cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của các sự vật sẽ hình thành m ột đường nút của những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là “bước nhảy”. Nói cách khác, bước nhảy là m ột phạm trù tri ết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Trong lịch sử triết học, do tuyệt đối hóa tính tiệm tiến, tính dần dần của sự thay đổi về lượng nên các nhà siêu hình đã ph ủ nhận sự tồn tại trong thực tế những bước nhảy. Theo Hêghen , bất k...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top