Download Tiểu luận Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

Download miễn phí Tiểu luận Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện





Dưới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm người chưa thành niên được sử dụng đề chỉ người đang ở độ tuổi chưa đủ năng lực hành vi còn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự thì thủ tục áp dụng đối với người từ 14 tuổi tròn nhưng chưa đủ 18 tuổi là thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên. Do hạn chế về mặt tâm sinh lý, về sự phát triển thể chất nên khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi còn bị tác động mạnh mẽ của điều kiện bên ngoài. Chính vì vậy, đối với đối tượng là người chưa thành niên có biện pháp xử lý riêng.
Chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm để họ trở thành những người công dân tốt cho xã hội. Vì vậy bộ luật hình sự và bộ luật tố tụng hình sự có những quy định riêng đối với người chưa thành niên Điều 12 – Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Điều 303 – BLTTHS năm 2003.
Về thủ tục bắt người chưa thành niên thì trình tự thủ tục tiến hành như trình tự thủ tục chung, nhưng phải thông báo cho gia đình, người thay mặt hợp pháp của họ biết ngay khi sau khi bắt. Khi tiến hành bắt người chưa thành niên, cơ quan nhận người bị bắt phải kịp thời xác minh ngay người chưa thành niên đó đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa, tội phạm mà người chưa thành niên đó thực hiện có phải là tội nghiêm trọng hay không họ có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt hay không. Nếu xét thấy không đủ hai điều kiện đó, cơ quan đã nhận người bị bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt, nếu cần thiết có thể yêu cầu cha, mẹ hay người đỡ đầu của người chưa thành niên đó giám sát, giáo dục. Thủ tục bắt người đối với đối tượng là người chưa thành niên thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.((1). Trường ĐH Luật HN, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 206.
)
b. Đối tượng và điều kiện áp dụng.
- Đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hay bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hay người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt để tạm giam.
- Điều kiện áp dụng: Không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hay cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo nếu xét thấy cần thiết. BLTTHS không quy định bắt tạm giam đối với bị can, bị cáo trong trường hợp cụ thể nào nhưng thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án để ra quyết định. Ngoài ra, những vấn đề này có thể được xem xét riêng rẽ trong một số trường hợp như phạm tội gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội.
c. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: (Khoản 1 – Điều 80 – BLTTHS năm 2003).
- Trong giai đoạn điều tra thì việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định.
Trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là một thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để bảo đảm hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Những lệnh bắt người mà không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp sẽ không có giá trị thi hành.
- Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định.
- Trong giai đoạn xét xử, việc bắt vị ban, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh Toà, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
d. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 2, Khoản 3 – Điều 80 – BLTTHS năm 2003).
- Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
- Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
- Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có thay mặt cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
- Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hay bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này.
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 – BLTTHS 2003).
a. Khái niệm.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tọi phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.((1). Trường ĐH Luật HN, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 210.
)
b. Những trường hợp bắt khẩn cấp (quy định tại Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003).
- Trường hợp thứ nhất:
“Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (điểm a – Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003).
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm tra, xác minh các nguồn tin để biết người đó đang bí mật tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hay tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần bắt ngay trước khi tội phạm được thực hiện. Việc bắt người này phải đảm bảo 2 điều kiện sau:
+ Có căn cứ khẳng định người đó (một người hay nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm.
+ Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Trường hợp thứ hai:
“Khi người bị hại hay người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn” (điểm b – Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003).
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hay người có mặt tại hiện trường nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này phải đảm bảo điều kiện sau:
+ Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm.
+ Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn.
- Trường hợp thứ ba:
“Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hay tiêu huỷ chứng cứ” (điểm c – Khoản 1 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003).
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó thực hiện tội phạm; nhưng qua việc phát hiện thấy có dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn ngừa việc người này bỏ trốn hay tiêu hủy chứng cứ thì bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này phải đảm bảo 2 điều kiện sau:
+ Khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm.
+ Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hay tiêu hủy chứng cứ.
c. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp (quy định tại Khoản 2 – Điều 81 – BLTTHS năm 2003).
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
- Ngườ...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top