Download Tiểu luận Chế độ sở hữu theo quy định của hiến pháp 1992

Download miễn phí Tiểu luận Chế độ sở hữu theo quy định của hiến pháp 1992





MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề: 1
II. Giải quyết vấn đề: 1
1. Sở hữu toàn dân: 1
a. Chủ thể của sở hữu toàn dân: 1
b. Khách thể của sỏ hữu toàn dân: 2
c. Cơ sở pháp lý để hình thành sở hữu Nhà nước: 2
2. Sở hữu tập thể: 4
3. Sở hữu tư nhân: 6
4. So sánh các loại hình sở hữu ở Việt Nam theo Hiến pháp 1992 7
5. Đánh giá: 8
III. Kết thúc vấn đề: 10
Danh mục tài liệu tham khảo 11
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

I. Đặt vấn đề:
Sở hữu, trước hết đó là những quan hệ kinh tế được hình thành (tích luỹ) trong quá tình sản xuất, trao đổi, phân phối các lợi ích vật chất và tinh thần. Việc phân tích các chế độ sở hữu của một xã hội cho phép chúng ta xác định cơ cấu kinh tế - xã hội, địa vị kinh tế - xã hội của một giai cấp, tầng lớp trong xã hội cũng như những mối quan hệ qua lại giũa các hình thức sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu cơ sở hạ tầng, bản chất giai cấp của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay, việc phân tích, tìm hiểu các chế độ sở hữu trong hiến pháp hiện hành là rất quan trọng nhằm hiểu hơn chính vì vậy, nhóm C1-1 xin chon đề tài: Chế độ sở hữu theo quy định của hiến pháp 1992.
II. Giải quyết vấn đề:
Trong công cuộc đổi mới, chúng ta thừa nhận nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân…
Sở hữu toàn dân:
Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với tài sản. Sở hữu toàn dân hay còn gọi là sở hữu nhà nước bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động cho nên những gì thuộc sở hữu nhà nước đều được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.
Chủ thể của sở hữu toàn dân:
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là thay mặt chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân nên Nhà nước là chủ thể duy nhất của sở hữu toàn dân. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân được Nhà nước giao vốn, các tư liệu sản xuất, các phương tiện làm việc… để quản lý và sự dụng. Nhà nước không giao cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và cá nhân quyền sở hữu mà chỉ giao cho quyền sử dụng. Khi sử dụng không đúng mục đích hay trái quy định của pháp luật, Nhà nước có thể chuyển giao quyền sử dụng từ cơ quan, tổ chức này cho cơ quan tổ chức khác… Tuy nhiên, để tài sản thuộc sở hữu Nhà nước được bảo tồn và sử dụng có hiểu quả, Nhà nước quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể cho cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân trong việc sử dụng.
Khách thể của sỏ hữu toàn dân:
Khách thể của sở hữu toàn dân rất đa dạng. Theo điều 17 Hiến pháp 1992 thì: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các nghành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kĩ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Như vậy, phạm vi khách thể Nhà nước rất rộng, trong tất cả các lĩnh vực : Như công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải… Có trong tay phần lớn tư liệu sản xuất chủ yếu trên tất cả lĩnh vực của nền kinh tế, Nhà nước có ưu thế đặc biệt để điều hành nền kinh tế.
Mặt khác khách thể của sở hữu Nhà nước là không hạn chế và ngoài những khách thể nói trên, Nhà nước còn có các loại tài sản khác mà mà pháp luật quy định là của Nhà nước.
Cơ sở pháp lý để hình thành sở hữu Nhà nước:
Những tài sản thuộc sở hữu Nhà nước được hình thành bằng nhiều cách, trên những cơ sở pháp lý khác nhau như:
Thứ nhất, bằng con đường tiếp thu những tài sản của Nhà nước, chế độ cũ để lại.
Thứ hai, bằng con đường tịch thu, trưng thu tài sản của bọn việt gian, tư sản mại bản,của bọn làm ăn phi pháp hay những tài sản mà Nhà nước quy định thuộc quyền sở hữu của Nhà nước như các di sản văn hoá…
Thứ ba, bằng con đường thu thuế, Nhà nước ban hành các luật thuế để quy định các loại thuế, nghĩa vụ nộp thuế và mức độ thu cụ thể đối với từng loại đối tưọng. Thuế là nguồn thu lớn nhất, thường xuyên vào ngân sách hằng năm.
Thứ tư, bằng con đường quốc hữu hoá những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản cũng như tuyên bố quốc hữu hoá đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu như ruộng đất, sông hồ, hầm mỏ… Nhà nước có những khách thể nhất định.
Thứ năm, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, các hình thức sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể có thể chuyển hoá thành sở hữu Nhà nước thông qua các hìng thức: công tư hợp doanh, liên doanh…
Thứ sáu, sở hữu Nhà nước còn hình thành bằng con đường tích luỹ.
Thứ bảy, sở hữu Nhà nước còn được hình thành bằng sự giúp đỡ không hoàn lại của các nước, các tổ chức, cá nhân trong nước và trên thế giới…
Xu hướng phát triển:
Hiện nay trong công cuộc đổi mới, sở hữu Nhà nước đang điều chỉnh theo hai hướng.
Một là, xác định những khu vực, đơn vị được coi là then chốt, chủ yếu nhất như các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo máy… phải củng cố và mở rộng sở hữu Nhà nước. Mặt khác, phải thu hẹp sở hữu Nhà nước ở những ngành, lĩnh vực, đơn vị kinh tế làm ăn kém hiệu quả hay chưa thực sự cần thiết dưới nhiều hình thức như: chuyển quyền sở hữu, bán đấu thầu…
Hai là, thực hiện phân cấp quản lí tài sản thuộc sở hữu Nhà nước nhằm mục đích bảo toàn và phát tiển số tài sản này. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm qua chúng ta đã tiến hành rộng rãi việc giao vốn cho các đơn vị kinh tế quốc doanh, trên cơ sở đó tăng cường trách nhiệm trong việc sử dụng vốn của các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Sở hữu tập thể:
Là sở hữu của hợp tác xã hay các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình góp vốn, góp sức cùng hợp tác xã sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi để thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ.
Chủ thể của sở hữu tập thể:
Chủ thể của sở hữu tập thể là các hợp tác xã như hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã thủ công nghiệp, tập đoàn sản xuất…
Như vậy, so với chủ thể của sở hữu Nhà nước (chỉ có một) thì sở hữu tập thể có một phạm vi rộng hơn và ngày càng tăng. Các tổ chức knh tế đặc biệt là các hợp tác xã không còn là một tập thể được thành lập theo mệnh lệnh để thực hiện mệnh lệnh ngay trong nội bộ đối với các thành viên mà là một đơn vị hợp doanh của các tập thể theo tinh thần tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi (theo điều 20 Hiến pháp 1992: “Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”.
Khách thể của sở hữu tập thể:
Bao gồm vốn, những tư liệu sản xuất (trâu, bò, nông cụ, máy móc, nhà xưởng…) và những tư liệu dùng trong sinh hoạt ( nhà ở, câu lạc bộ, bàn ghế, phương tiện đi lại…).
Cơ sở pháp lí để hình thành sở hữu tập thể:
Sở hữu tập thể cũng được hình thành bằng nhiều cách, trên những cơ sở pháp lí khác nhau như:
Thứ nhất, sở hữu tập th
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top