meocon_sunrang

New Member

Download Tiểu luận Các quy định của luật tố tụng hình sự về bắt người trong tố tụng hình sự miễn phí





MỤC LỤC
Trang
I– MỞ ĐẦU 1
II- NỘI DUNG 1
A- CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI TRONG TTHS 1
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam 2
1.1. Đốí tượng áp dụng và điều kiện áp dụng 2
1.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam 2
1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam 3
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp 4
2.1. Các trường hợp bắt người khẩn cấp 4
2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp 6
2.3. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp 7
3. Bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã 7
3.1. Bắt người phạm tội quả tang 7
3.2. Bắt người đang bị truy nã 8
B – ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI 9
III – KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
 
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước đây, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định có ba trường hợp bắt người sau:
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
Bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã;
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( Quy định tại Điều 80 Luật TTHS năm 2003).
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố bị can hay đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam, nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam chỉ có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo đã có lệnh bắt tạm giam, lệnh bắt giam hay phê chuẩn của Viện kiểm sát. Người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can hay người không bị tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không thể bị bắt để tạm giam. Tuy vậy, cần lưu ý rằng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể bị áp dụng biện pháp bắt để tạm giam. Từ đó có thể thấy đối tượng bị áp dụng phải là bị can hay bị cáo.
Bộ luật TTHS hiện hành không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hay cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với các bị can, bị cáo nào nếu xét thấy cần thiết.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( Khoản 1 điều 80 bộ luật TTHS 2003)
Điều 80 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “ Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
Như vậy, trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trong giai đoạn truy tố chỉ có Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp mới có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Kiểm sát viên không có quyền đó. Còn trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án tòa án nhân dân và tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Nếu vụ án đã đưa ra xét xử, nhưng bị cáo không bị tạm giam thì theo Điều 228 Bộ luật TTHS quy định Hội đồng xét xử được quyết định bắt ngay bị cáo sau khi tuyên án, nếu có căn cứ cho rằng bị cáo có thể trốn hay tiếp tục phạm tội.
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( khoản 2 và khoản 3 Điều 80 Bộ luật TTHS năm 2003)
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Lệnh bắt phải bảo đảm yêu cầu pháp lí nêu trên mới có giá trị thi hành. Ngoài ra, lệnh bắt vi phạm thủ tục do luật định như bắt người theo lệnh miệng, lệnh bắt của người không có thẩm quyền, lệnh không ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh, lệnh không có chữ kí của người có thẩm quyền, không đóng dấu cơ quan, lệnh bằng thư tay, lệnh bắt của cơ quan điều tra không có phê chuẩn của Viện kiểm sát đều không có giá trị thi hành.
Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt buộc phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe và phải lập biên bản về lệnh bắt. Biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ của người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt những đồ vật tài liệu có liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng kí tên vào biên bản.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có thay mặt cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Khoản 3 Điều 80 bộ luật này cũng quy định: “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hay bắt người đang bị truy nã…”
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp ( Điều 81 Bộ luật TTHS năm 2003)
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Các trường hợp bắt người khẩn cấp
Khoản 1 Điều 81 bộ luật TTHS năm 2003 quy định các trường hợp được bắt khẩn cấp như sau:
Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Thứ nhất, có căn cứ khẳng định một người ( hay nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Những căn cứ này có thể do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp xác định qua việc theo dõi đối tượng hay qua việc kiểm tra, xác minh các nguồn tin do quần chúng cung cấp đã khẳng định người đó ( hay những người đó) đang tìm kiếm công cụ, phương tiện hay tạo ra những điều cần thiết khác để thực hiện tội phạm…
Thứ hai, tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội phạm còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội phạm nên không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần truy cứu trách nhiệm hành sự. Do vậy, muốn bắt khẩn cấp một người (hay nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện thì phải xác định tội phạm họ đang chuẩn bị thực hi
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top