daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................2
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................9
5. Cấu trúc luận văn.............................................................................................9
6. Yêu cầu cần đạt ...............................................................................................9
CHƯƠNG 1. HUYỀN THOẠI VÀ CHỦ NGHĨA.................................................11
HIỆN THỰC HUYỀN ẢO ....................................................................................11
1.1. Huyền thoại (myth).....................................................................................11
1.2. Thời gian và không gian huyền thoại ..........................................................14
1.3. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (Magic Realism)..........................................17
CHƯƠNG 2. THỜI GIAN HUYỀN THOẠI .........................................................24
2.1. Trật tự (ordre) .............................................................................................24
2.1.1. Niên biểu (chronique) ..........................................................................25
2.1.2. Sai trật tự niên biểu (anachronie)..........................................................27
2.1.3. Quay ngược (analepsés) .......................................................................33
2.1.4. Đón trước (prolepses)...........................................................................35
2.2. Thời lưu (durée)..........................................................................................36
2.2.1. Thời sai................................................................................................36
2.2.2. Tỉnh lược .............................................................................................39
2.3. Tần suất (fréquence) ...................................................................................40
2.3.1 Từ ngữ (Terme).....................................................................................41
2.3.2 Thái độ (Attitude) .................................................................................44
2.3.3 Hành động (Action) ..............................................................................46
2.4. Điềm báo (Foresight) ..................................................................................48
CHƯƠNG 3. KHÔNG GIAN HUYỀN THOẠI ....................................................52
3.1. Macondo huyền thoại..................................................................................52
3.1.1. Khởi nguồn huyền thoại.......................................................................52
3.1.2. Diễn tiến vòng tròn, khép kín kì lạ .......................................................56
3.1.3. Không gian của những biểu tượng........................................................60
3.2. Tấm da thuộc - không gian tưởng tượng .....................................................62
3.2.1. Melquíades - chủ nhân huyền bí của tấm da thuộc................................62
3.2.2. Tấm da thuộc biết nói...........................................................................65
3.3. Không gian căn phòng ...............................................................................67
3.3.1. Phòng thí nghiệm .................................................................................67
3.3.2. Căn phòng của Melquíades ..................................................................69
3.3.3. Căn phòng của Rebeca sau khi kết hôn.................................................71
KẾT LUẬN...........................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................78
PHỤ LỤC..............................................................................................................80Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Luận văn của chúng tui lựa chọn đề tài Thời gian và không gian huyền thoại
trong Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez xuất phát từ những lí do
sau đây:
Thứ nhất: Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh thế kỉ XX là một trào lưu
văn học tiêu biểu, đã khẳng định được vị trí ưu việt của mình trên văn đàn thế
giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, những nghiên cứu về mảng văn học này còn lẻ tẻ
và chưa thành hệ thống. Hầu hết các nghiên cứu mới dừng lại ở những bài giới
thiệu, dịch thuật về tác phẩm, tác giả. Vì thế, đi vào địa hạt văn học này nằm
trong mong muốn góp phần hoàn thiện cái nhìn về văn học thế giới ở Việt Nam
ở chúng tôi.
Thứ hai: Márquez (nhà văn Columbia) là một cây bút xuất sắc của văn học
hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Ông thành công trên cả thể loại tiểu thuyết và
truyện ngắn với các tác phẩm nổi tiếng: Trăm năm cô đơn (One Hundred Years
of Solitude, 1967), Ngài đại tá chờ thư (No one write to the Cononel,
1957)…Trong đó, ưu thế sáng tác thuộc về tiểu thuyết. Đồng thời, tiểu thuyết
cũng là một trong những thể loại “đinh” của văn học. Vì thế, chúng tui tập trung
vào tiểu thuyết của tác giả, cụ thể là tác phẩm Trăm năm cô đơn (One Hundred
Years of Solitude).
Xuất bản lần đầu vào tháng 6 năm 1967 nhưng thực tế, Trăm năm cô đơn đã
được tác giả hoài thai trước đó hơn một thập kỷ, do chưa tìm được giọng điệu
thích hợp, nên nhà văn đã rèn luyện, mài sắc ngọn bút của mình qua nhiều sáng
tác: Đôi mắt chó xanh (1955), Đám tang của bà mẹ vĩ đại (1962)… Vì thế,
không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhân vật trong các tác phẩm này đều liên quan
đến nhau và nhiều lần qua lại làng Macondo - không gian chủ đạo của Trăm năm
cô đơn. Tiểu thuyết này đã vinh dự nhận được giải Nobel văn học năm 1982 và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
3
nhiều giải thưởng cao quý khác như: giải Chianchano của Ý (1969), giải
Romulo Gallegos và Neustad của Venezuenla (1972)… Trăm năm cô đơn đã
mang đến cho Châu Mỹ Latinh “sự giàu có không lặp lại về thẩm mỹ và tinh
thần” [3, tr.60], trở thành tác phẩm bậc thày trong kỹ thuật tiểu thuyết hiện thực
huyền ảo Mỹ Latinh.
Thứ ba: Trăm năm cô đơn được bao phủ bởi một lớp thời gian và không gian
huyền thoại. Lớp không-thời gian huyền thoại là một trong những yếu tố quyết
định thành công của tác phẩm. Chính vì thế, nghiên cứu không-thời gian huyền
thoại trong tác phẩm cũng chính là đi tìm sợi chỉ đỏ dệt nên tiểu thuyết này.
Đồng thời, qua đó chúng ta có thể thấy được đặc trưng kĩ thuật tiểu thuyết hiện
thực huyền ảo Mỹ Latinh nhằm tiếp thu kinh nghiệm của tác giả bậc thày này.
Cuối cùng, bản thân tác giả luận văn rất say mê và đã từng giảng dạy văn học
Mỹ Latinh ở bậc đại học và phổ thông, nên tất yếu có những quan tâm đặc biệt
đến Márquez.
Với những lí do đó, chúng tui mong muốn những kết quả nghiên cứu này sẽ
hữu ích cho công tác giảng dạy và nghiên cứu Márquez nói riêng và văn học
hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Qua một thời gian giảng dạy văn học Mỹ Latinh cùng với quá trình lâu dài
nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước, người viết nhận thấy hầu hết những
tài liệu nghiên cứu về Márquez và tác phẩm của ông mới chỉ dừng lại ở mức độ
nhận xét, đánh giá chung, chưa đi vào cụ thể. Ở đây, người viết chỉ trình bày
những tài liệu liên quan đến đề tài của luận văn:
* Trong nước:
Từ khi Trăm năm cô đơn được Nguyễn Trung Đức dịch ra Tiếng Việt (năm
1982) đến nay, trong giới nghiên cứu xuất hiện nhiều bài viết lẻ tẻ về tác phẩm.
Trong đó, một số công trình đề cập đến thời gian và không gian trong tác phẩm
là gợi ý cho luận văn của chúng tui như: Bài Hiệu quả nghệ thuật của không -Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
4
thời gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Márquez của Nguyễn Trung
Đức (bài viết này cũng đã được chọn là lời giới thiệu cho bản Tiếng Việt của tác
phẩm); bài viết nhan đề Cô đơn nghĩa là sự tiêu diệt của Lê Nguyên Cẩn; bài Từ
Đông ki sốt đến Trăm năm cô đơn của Đỗ Đức Dục; công trình Thi pháp huyền
thoại của Eleaza Moiseevich Meletinsky do dịch giả Song Mộc và Trần Nho
Thìn chuyển ngữ sang Tiếng Việt; cuốn Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Gabriel
García Márquez của Lê Huy Bắc; Luận văn thạc sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết Trăm
năm cô đơn của Vũ Trung Kiên.
Trong Hiệu quả nghệ thuật của không - thời gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô
đơn của Márquez, Nguyễn Trung Đức tổng kết một cách ngắn gọn những nét cơ
bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Trong đó, tác giả xếp không gian, thời
gian và nhân vật vào kết cấu cơ bản của tác phẩm. Ông viết: “Trăm năm cô đơn là
chuyện về dòng họ Buendía được viết tỉ mỉ đến từng chi tiết theo cách thời
gian đồng hiện với kết cấu phức tạp và chặt chẽ” [4, tr.12]. Trong đó, hai loại thời
gian được Nguyễn Trung Đức đặc biệt lưu ý là: thời gian văn bản thứ nhất (văn bản
tác phẩm) gắn với người kể chuyện thứ nhất - chính là thời gian tâm lý gắn với qua
trình hồi tưởng lại và thời gian văn bản thứ hai (văn bản của Melquíades) - gắn với
người kể chuyện thứ hai - chính là thời gian cốt truyện, mang tính biên niên sử. Tác
giả tiến hành phân tích hai loại thời gian này với những tiểu loại thời gian cụ thể
hơn: thời gian vĩnh cửu, thời gian vòng tròn, khép kín, thời gian đa chiều…Tuy tác
giả không phân tích trực tiếp vào thời gian huyền thoại, nhưng những phân tích về
hiệu quả nghệ thuật sử dụng thời gian của tác giả mang những dấu hiệu về thời gian
huyền thoại, là gợi ý đầu tiên với chúng tôi.
Phần viết về không gian, tác giả chủ yếu tập trung vào không gian Macondo.
Nguyễn Trung Đức khẳng định các nhân vật trong tiểu thuyết được lấy nguyên
mẫu từ người thật việc thật ở Aracataca. Ông viện dẫn theo Hecman Vacgat -
nhà phê bình văn học Columbia, đồng thời là bạn thân của Márquez rằng: cụ già
bán sách cổ người Catalunha là Kamon Vinhet, bốn người bạn trẻ chơi thân với
nhau chính là các bạn của nhà văn: Anvaro là nhà văn Anvaro Xepeda Xamudio,
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
5
Vacgat là nhà phê bình Hecman Vacgat, Anponxo là họa sĩ Anponxo Xepeda
Phuenmado. Ông cũng chỉ ra: “Macondo là một địa danh hư cấu đủ sức dung
nạp mọi chuyện, từ chuyện có thực đến chuyện tưởng tượng - dù tưởng tượng
theo nguyên tắc huyền thoại” [4, tr.195]. Tác giả bài viết tập trung vào phân tích
thực tại mà nhà văn muốn phản ánh qua hình ảnh Macondo. Phần viết về không
gian hết sức cô đọng, ngắn gọn, chủ yếu nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của biểu
tượng Macondo, không dành sự quan tâm cho nghệ thuật xây dựng hình tượng.
Bài viết mới dừng lại ở việc nhận xét khái quát cấu trúc tác phẩm trên các
phương diện cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian.
Tiếp đến, bài viết của Lê Nguyên Cẩn đăng trên tạp chí Châu Mỹ ngày ngay,
số 1, năm 2000, có đề cập đến những yếu tố kĩ thuật độc đáo thể hiện đề tài cái
cô đơn, trong đó có thời gian và không gian. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh các kỹ
thuật về thời gian đồng hiện, không gian đa tuyến: “Cùng với kĩ thuật thời gian
đồng hiện, cái đột biến nhiều tầng được đặt vào không gian đa tuyến tạo nên hiệu
quả nghệ thuật đặc biệt. Cốt truyện hai lần trùng lặp…tạo thành cảm giác như là
sự phóng đại, toàn cảnh, một kiểu phim màn ảnh rộng” [2, tr.45]. Bài viết của
ông đi sâu nghiên cứu cái cô đơn trong tác phẩm và chỉ ra ý nghĩa của nó. Thời
gian và không gian cũng được đề cập đến nhưng chỉ là điểm mặt gọi tên, góp
phần làm sáng tỏ mục đích của bài viết.
Đặt Trăm năm cô đơn ngang hàng với Don Kihote của Cervantes trong dòng
văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha, Đỗ Đức Dục viết: “Chính cái trào lộng
nhiều cung bậc, cái tâm lý uẩn ảo, cái chiều sâu triết lý của tác phẩm, thể hiện
bằng những thủ pháp nghệ thuật tinh vi như thời gian đồng hiện, thời gian phức
hợp và chồng chéo, như cường điệu và kệch cỡm hóa, huyền thoại hóa (…) tất cả
những cái đó thể hiện cái thực tại huyền ảo, là đối tượng mô tả của chủ nghĩa
hiện thực kỳ diệu - đặc sản của nền văn học châu Mỹ Latinh hiện đại” [3, tr.65].
Theo Đỗ Đức Dục, để giới thiệu một tác phẩm cỡ lớn như Trăm năm cô đơn
thì trước tiên cần xác định tọa độ không-thời gian của tác phẩm một cách đúng
đắn. Ông đi vào phân tích thời gian lịch sử của tiểu thuyết này, chỉ ra những nétLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
6
tương đồng với hoàn cảnh lịch sử của Columbia. Đồng thời, tác giả bài viết
cũng chứng minh những cuộc đụng độ văn hóa giữa các phát minh khoa học Tây
Âu kể cả tinh thần duy lý với một nền văn minh bán khai và hết sức lai tạp cùng
tập tục, tín ngưỡng thô sơ của những người da đen (đặc biệt là người Anh điêng)
từ Châu Phi sang còn mang ý thức huyền thoại lạc hậu. Theo Đỗ Đức Dục, đó là
thời đại đã nảy sinh ra những áng trào lộng tuyệt vời. Tình trạng trì đọng, chậm
phát triển của Mỹ Latinh sản sinh ra Trăm năm cô đơn dung chứa cả tiếng cười
ngậm ngùi cay đắng của Don Kihoté lẫn tiếng cười giòn giã của Gargantua và
Pangtagruyel, yếu tố kệch cỡm (grotesque), hội giả trang (carnavalesque) và
bợm nghịch (picaresque) của văn học Tây Ban Nha.
Bài viết của Đỗ Đức Dục phân tích tọa độ không-thời gian là xuất phát điểm
để Márquez chắp bút cho tác phẩm. Nó là gợi ý hữu ích khi chúng tui phân tích
cấp độ trật tự thời gian trong tác phẩm.
Thi pháp huyền thoại của Eleaza Moiseevich Meletinsky được dịch ra tiếng
Việt và xuất bản năm 2004 dành 4 trang (trang 503 – 506) nói về tác giả Márquez
và các tác phẩm của ông (chủ yếu là Trăm năm cô đơn) với tư cách là cây bút đại
diện cho những dạng thức huyền thoại hoá khác nhau trong tiểu thuyết hiện đại.
Tác giả nhận định mối quan hệ giữa không gian và thời gian là một trong những
biểu hiện độc đáo của sáng tác huyền thoại bên cạnh những mối quan hệ khác
như: sự năng động và phức tạp giữa sự sống và cái chết, ký ức và sự lãng quên,
người sống và người chết, v.v…Tác giả chỉ dừng lại ở những nhận định khái quát
nhất, minh chứng bằng một số ví dụ cụ thể. Do tính tổng hợp của cuốn sách, tuy
số trang dành cho tác giả không phải là nhiều trong tổng dung lượng hơn 500
trang, nhưng với quy mô và giá trị học thuật lớn lao của nó, đây đã là một sự
khẳng định quan trọng về giá trị của tác phẩm. Những phân tích tổng quan này gợi
ý cho chúng tui về mối quan hệ giữa không gian và thời gian huyền thoại của tác
phẩm.
Năm 2005, Luận văn thạc sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Vũ
Trung Kiên bảo vệ tại Đại học Sư phạm Hà Nội nghiên cứu về nghệ thuật của tác
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
7
phẩm, trên các phương diện: Cốt truyện và đề tài, điểm nhìn và các kiểu nhân vật
đặc trưng. Trong đó, trong chương 2 (Điểm nhìn), mục 2.3 với nội dung nói về
không gian, tác giả có đề cập đến “Macondo - không gian tiền định" và “Căn
phòng của Melquíades hay mảnh vỡ của thời gian”.
Không gian Macondo được Vũ Trung Kiên nhấn mạnh là không gian tiền định.
Tác giả viết: “Về đặc điểm, Macondo, ngôi làng huyền thoại với bao điều kỳ ảo,
có một không gian giống như trong Kinh thánh tồn tại ngay từ thuở hồng hoang
cho tới ngày Khải huyền - ngày của sự tận diệt” [13, tr.54]. Macondo cũng gắn với
những thời gian cụ thể, rõ ràng mà lại rất mơ hồ.
Phần 2.3.2 có tiêu đề “Căn phòng của Melquíades hay mảnh vỡ của thời
gian”. Vũ Trung Kiên chứng minh không gian căn phòng của Melquíades như
một sự đối lập mang đậm tính huyền bí hoang đường.
Như thế, tác giả có đề cập đến tính huyền ảo của không gian Macondo và
không gian căn phòng của Melquíades nhưng chủ yếu là nghiên cứu dưới góc độ
điểm nhìn của nhân vật, không chú ý đến tính huyền thoại.
Gần đây nhất, năm 2009, Công trình Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Gabriel
Garcia Márquez của tác giả Lê Huy Bắc chia làm hai phần với các nội dung:
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel Gacía Márquez. Phần nói về sáng tác
của Márquez là tập hợp các bài viết của tác giả đã được đăng tải trên các báo, tập
san, có bổ sung một số bài mới. Trong đó, chương 6 trực tiếp đề cập đến tác
phẩm Trăm năm cô đơn trên các phương diện: cốt truyện, nhân vật, huyền thoại
về cái cô đơn, trần thuật. Phần 5 trong chương 6 đề cập đến Macondo huyền
thoại. Trong đó, tác giải thích nguồn gốc tên gọi Macondo và quá trình hư cấu để
tìm ra tên gọi này. Tác giả cũng phân tích quá trình hình thành, phát triển và diệt
vong của làng Macondo gắn với yếu tố huyền thoại. Phần 6: “Trần thuật mê lộ -
biên niên sử huyền ảo” đề cập đến thời gian nhưng chủ yếu tập trung vào yếu tố
tự sự. Những phân tích của tác giả về thời gian không gian trong công trình này
cũng là những gợi ý bổ ích cho đề tài của chúng tôi.Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
8
* Ngoài nước:
Một số bài nghiên cứu rất có ích cho chúng tui trong quá trình tìm đề tài như:
Bài của Jon Lee Anderson với nhan đề The power of Gabriel Garccía Márquez,
bài giới thiệu One Hundred Years of Solitude.
Bài viết của Anderson dài 24 trang. Đây là một công trình khái quát về cuộc
đời và sự nghiệp sáng tác của Márquez. Trong đó, tác giả đề cập đến quan điểm
sáng tác, những thăng trầm trong cuộc sống và sự nghiệp của nhà văn. Anderson
chú ý đến giá trị lịch sử được tạo ra bởi không-thời gian trong tác phẩm. Theo
ông, không-thời gian trong tác phẩm có mối quan hệ chặt chẽ, là sự kết hợp giữa
hiện thực (reality) và huyền ảo (fantastic), nhằm tạo ra tính phi thời gian
(timeless) cho tiểu thuyết.
Bài giới thiệu One Hundered Years of Solitude đi từ việc giới thiệu bối cảnh
lịch sử, biểu tượng, nhân vật, chủ đề chính… Phần 6 với tiêu đề The fluidity of
time (Trạng thái lỏng của thời gian) đề cập đến thời gian của tác phẩm. Mở đầu
nội dung viết về thời gian tác giả khẳng định: “One Hundred Years of Solitude
contains several ideas concerning time” [17, tr.18] (Trăm năm cô đơn chứa đựng
nhiều ý tưởng liên quan đến thời gian). Tác giả giải thích rằng mặc dù câu
chuyện có thể được đọc theo sự phát triển tuyến tính của các sự kiện (a linear
progression of events), khi xem xét lịch sử và cá nhân, nhưng Márquez đã đưa ra
cách giải thích khác: ẩn dụ lịch sử được nhắc đi nhắc lại như một thuyết hiện
tượng mang tính quay vòng (a circular phenomenism). Về cơ bản, tác phẩm có
đủ độ lớn về thời gian tuyến tính để phác hoạ, nhưng nó luôn có sự hiện diện của
cả quá khứ (past), hiện tại (present) và tương lai (future); khám phá ra tính phi
thời gian (timelessnes / intemporalité) ngay trong thực tại. Bài viết nhấn mạnh
yếu tố phi thời gian và tính đồng hiện của thời gian trong tác phẩm. Tác giả mới
dừng lại ở việc đưa ra nhận định và một vài dẫn chứng tiêu biểu trong tác phẩm
như việc José Arcadio Buendía sản xuất những con cá vàng, Úrsula cảm thấy
thời gian quay vòng tròn.
Tóm lại, những nghiên cứu trong và ngoài nước về Trăm năm cô đơn đều
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
9
chưa bàn cụ thể về yếu tố thời gian và không gian huyền thoại của tác phẩm.
Chúng tui khẳng định chưa có công trình nghiên cứu nào trùng với đề tài luận
văn của chúng tôi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thời gian và không gian huyền thoại
trong tác phẩm Trăm năm cô đơn của Gabriel Gaxia Márquez.
Chúng tui nghiên cứu trong phạm vi tác phẩm dựa trên bản Tiếng Anh được
đăng tải trên website , cập nhật ngày
15/07/2006 và bản dịch Tiếng Việt của dịch giả Nguyễn Trung Đức, tái bản lần
thứ năm, năm 2004. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo các sáng tác khác của
Márquez để có cái nhìn hoàn thiện về tác giả.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do tính chất tổng hợp của luận văn, nên chúng tui kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: phê bình huyền thoại; phê bình phân tâm học; phê bình
cấu trúc; phê bình thi pháp học; phương pháp nghiên cứu liên ngành kết hợp với
các thao tác: đối chiếu, so sánh (bản tiếng Anh và tiếng Việt), phân tích, tổng
hợp, thống kê. Trong đó, phương pháp chính là phê bình huyền thoại và thi pháp
học.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Huyền thoại và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
Chương 2: Thời gian huyền thoại
Chương 3: Không gian huyền thoại
6. Yêu cầu cần đạt
Nghiên cứu đề tài này chúng tui nhằm đạt được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất: Có một cái nhìn tổng quan về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Thứ hai: Tìm hiểu các cấp độ thời gian làm nên thời gian huyền thoại trong
tác phẩm Trăm năm cô đơn và ý nghĩa, vai trò của nó.Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
10
Thứ ba: Nghiên cứu các kiểu không gian huyền thoại đặc trưng trong Trăm
năm cô đơn và ý nghĩa của nó.
Cuối cùng, trên cơ sở nghiên cứu thời gian và không gian huyền thoại trong
Trăm năm cô đơn, chúng tui muốn đề xuất hướng nghiên cứu lâu dài cho các tác
phẩm và sáng tác của Márquez nói riêng và văn học hiện thực huyền ảo nói
chung
ũng
chôn vùi sự minh mẫn, trí thông minh của lão trượng này. Không dừng lại ở đó,
nó còn đưa các thành viên trong gia đình vào vòng luẩn quẩn vô vọng, mặc dù
tất cả đều xuất phát điểm từ niềm say mê khoa học kỹ thuật và tư tưởng cầu tiến.
Khởi điểm với mục đích tốt đẹp nhìn ra thế giới, kết thúc bằng những cuộc đời
luẩn quẩn và sự vô vọng, phòng thí nghiệm đã bị biến dạng. Nó trở thành mồ
chôn các thành viên trong dòng họ ngay từ khi còn sống. Không gian này khiến
con người trở nên tăm tối, xa lánh ngay cả những người trong nhà. Phòng thí
nghiệm đã không còn giữ được tính chất vốn có của nó. Trong tác phẩm, hình
ảnh này biến dạng một cách hết sức tự nhiên, từng bước từng bước đưa con
người đến ngày tận thế.
3.3.2. Căn phòng của Melquíades
Căn phòng của Melquíades là nơi cụ chắp bút tiên đoán số phận của dòng họ
Buendía. Mặc dù nằm trong ngôi nhà của dòng họ này, nhưng dường như nó
tách biệt hẳn bởi sức bền bỉ, dẻo dai trước sự tàn phá của thời gian và chủ nhân
của mình. Đó cũng chính là nguyên nhân đem đến tính huyền bí cho không gian
này.
Tất nhiên, căn phòng của Melquíades không nằm trong kế hoạch xây dựng nhà
của Úrsula bởi lẽ cụ không phải là thành viên của gia đình Buendía. Thế nhưng,
với tư cách là thần tượng của José Arcadio Buendía, và người đi suốt trăm năm
cùng dòng họ này, cụ xứng đáng được Úrsula dành riêng cho một căn phòng khi
mở rộng ngôi nhà. Lần thứ hai trở lại Macondo, sau khi đã chết ở Xanhgapo, cụ đã
già đi rất nhiều, Úrsula đã làm cho cụ một buồng riêng ngay cạnh phòng thí
nghiệm. Không phải ngẫu nhiên mà phòng cụ được bố trí cạnh xưởng kim hoàn.
Nếu không có sự xuất hiện của Melquíades chắc chắn phòng thí nghiệm sẽ không
bao giờ ra đời.
Cách bày trí và địa lý của căn phòng dường như làm cụ rất hài lòng, đến mứcLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
70
giờ ăn cơm cũng không thấy cụ ra khỏi phòng. Thực tế là cụ miệt mài với
những trang sách huyền ảo khi đã hội đủ trí tuệ uyên bác, tư duy logic để viết
nên những điều huyền ảo mà người phàm trần không bao giờ hiểu được. Phòng
đặt cách xa những tiếng ồn ào, bếp núc, có cửa sổ, giá sách, cốc nước đựng hàm
răng giả.
Căn phòng Melquíades bắt đầu nhuốm màu sắc huyền ảo khi chủ nhân của nó
qua đời. Vượt ra ngoài quy luật của thời gian, bất chấp sự chảy trôi tựa “bóng
câu qua cửa sổ”, căn phòng vẫn luôn sạch sẽ, mới mẻ như vừa được quét dọn.
Dường như chủ nhân của căn phòng ngày ngày vẫn làm việc miệt mài, thu dọn
căn phòng của mình thật gọn gàng, sạch sẽ. Nó thậm chí sạch sẽ hơn cả những
căn phòng được quét dọn hằng ngày, không có bụi phủ, mạng nhện giăng, đến
nỗi khi Úrsula đem xô nước và chổi vào phòng định thu dọn thì cụ thất nghiệp.
Kì lạ hơn, qua bao năm tháng mà mực vẫn không khô, gỉ sắt vẫn không làm các
công cụ kim loại mất đi vẻ bóng nhoáng, than lửa đun thủy ngân vẫn cháy.
Trong Tấm cám của Việt Nam, căn phòng của bà lão bán nước sạch sẽ tinh
tươm, cơm nước tươm tất sau mỗi lần Tấm từ quả thị chui ra, độc giả vẫn biết tại
sao nó trở nên sạch sẽ. Thế nhưng, ở đây, tác giả chỉ kể mà không có lời giải
thích nào. Phòng Melquíades nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian, hay
ngày ngày có ai đó thu dọn căn phòng giúp cụ. Tác giả không hề nhắc đến. Thời
gian dường như không chảy trôi mà “bị tai nạn”, biến căn phòng thành chốn vĩnh
cửu. Tình trạng sạch sẽ của căn phòng được tác giả kể như một vốn nó phải thế,
không gì thay đổi được.
Trong căn phòng này, Melquíades đã chết trước khi thế hệ thứ tư của dòng họ
Buendía ra đời, thế nhưng đến thế hệ thứ sáu của dòng họ này, cụ vẫn đi về trò
chuyện với Aureliano Babilonia.
Căn phòng cũng chỉ có duyên phận với hai người duy nhất trong dòng họ:
José Arcadio Segundo và Aureliano Babilonia. Những người khác trong gia đình
mặc dù Melquíades đứng ngay trước mặt cũng không cảm nhận được sự hiện
hiện hữu ấy.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
71
Căn phòng của Melquíades dung chứa trong đó những sức mạnh siêu nhiên,
gắn liền với những sự kiện huyền bí không thể giải thích được. Khi Aracadio
Segundo trốn trong căn phòng ấy, đứng ngay trước mặt viên sĩ quan cùng sáu tên
lính đang đuổi bắt anh, nhờ luồng ánh sáng siêu phàm của tự nhiên che phủ, anh
được an toàn. Nhưng chính Arcadio Segundo lại đâm ra e sợ vì sự may mắn
ấy, băn khoăn về sự tồn tại thực sự của mình. Nỗi sợ hãi lớn đến độ ông đề nghị
Santa Sofía de la Piedad nhất định phải cắt đứt cổ họng cho mình khi qua đời, để
chắc chắn rằng đã chết thật. Hiện tượng này không thể cắt nghĩa bằng khoa học
thông thường, mà chỉ có thể cảm nhận bằng đời sống tâm linh.
Không gian này cũng có thể coi là ốc đảo an toàn của những số phận bất hạnh
trong dòng họ, tiêu biểu là Aureliano Babilonia. Anh chàng là kết quả của cuộc
tình vụng trộm giữa Maurixio Babilonia và Meme. Cha đẻ của anh vĩnh viễn
sống liệt giường sau lần vụng trộm đó nhưng vì một tội danh khác: ăn trộm gà.
Trước thái độ và tình cảm lạnh nhạt của bà ngoại là Fernanda dành cho mình, xa
lạ với những người trong nhà, Aureliano Babilonia thực sự gắn bó với căn phòng
của Melquíades. Anh là người được định mệnh lựa chọn để giải mã số phận của
dòng họ. Nhưng nói cho cùng, sự giải mã ấy thật sự muộn màng, không thể cứu
vớt được số phận của dòng họ Buendía và làng Macondo.
3.3.3. Căn phòng của Rebeca sau khi kết hôn
Rebeca không phải là một Buendía. Cô là đứa bé mồ côi, có họ hàng xa với
José Arcadio Buendía, tới nhà Buendía mang theo hài cốt của cha mẹ mình.
Rebeca bộc lộ những điểm kì lạ ngay từ khi mới chen chân đến Macondo. Lúc mới
đến, cô hầu như chỉ ăn đất, không ăn cơm, không chuyện trò với ai. Mỗi khi có
việc gì không thể tự chủ được, cô lại ăn đất và vôi tường. Cô cũng là người đem
đến mảnh đất Macondo dịch mất ngủ, khiến dân làng nhiều đêm thức trắng. Hậu
quả là dân Macondo bị mắc chứng lãng quên, không nhớ nổi tên của các đồ vật
trong nhà.
Rebeca và Amaranta đều yêu tha thiết Pietro Crepsi, nhưng thời gian đầu anhLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
72
chỉ dành tình cảm cho Rebeca. Đó cũng là nguyên nhân làm nảy sinh lòng thù
hận vĩnh viễn của Amaranta với cô. Ngay cả khi Rebeca từ bỏ Pietro Crepsi, yêu
say đắm José Arcadio và kết hôn với anh, bất chấp sự ngăn cản của Úrsula, lòng
thù hận ấy vẫn không hề nguôi ngoai. Chính lễ kết hôn của cô và José Arcadio đã
khiến họ bị “trục xuất” ra khỏi nhà Buendía.
Đồ vật duy nhất hai vợ chồng Rebeca đem về nhà mới là chiếc võng của José
Arcadio. Ngôi nhà nằm ngay trước nghĩa địa. Vợ chồng Rebeca không những
không cảm giác sợ khi một mình ở giữa không gian ấy, mà còn vui mừng tận
hưởng gió từ nghĩa địa theo các cửa sổ lùa vào. Hơi diêm sinh của người chết
làm cho các bức tường trong nhà cô bạc phếch. Đêm tân hôn, mặc dù Rebeca bị
bọ cạp cắn làm tê liệt chân tay, nhưng cơn nồng say của họ làm hàng xóm dù
không sát vách cũng phải tỉnh dậy đến tám lần trong một đêm. Rõ ràng, không
khí chết chóc từ nghĩa địa không ảnh hưởng gì đến cuộc vui của đôi vợ chồng.
Trong căn nhà này, cái chết của José Arcadio là chuyện bí hiểm nhất không
bao giờ được làm sáng tỏ ở Macondo. Vào buổi chiều tháng Chín, sau khi đi săn
về, anh chào Rebeca, rồi đóng cửa buồng lại thì một phát súng lục nổ vang làm
rung chuyển cả căn nhà. Và đặc biệt, cái chết của anh được miêu tả rất bí hiểm:
“Một dòng máu chảy ra từ dưới cánh cửa, bò qua phòng khách, đi ra đường, tiếp
tục chảy dọc theo những con đường gập ghềnh, trèo lên những bậc đất và những
vật cản, bò một mạch theo đường Thổ Nhĩ Kỳ, rẽ ngoặt sang trái vào một phố rồi
ngoặt phải sang phố khác trước khi nó quay ra một góc vuông thước thợ ngay
trước nhà Buendía rồi chui dưới cửa đóng kín vào nhà, cứ bám lấy tường mà
vượt qua phòng khách để khỏi vấy bẩn những tấm thảm trải nhà, tiếp tục bò qua
một phòng khác, lượn một vòng rõ rộng để tránh bàn ăn, bò dọc theo hành lang
những chậu thu hải đường và chui qua chiếc ghế Amaranta ngồi dạy toán cho
Aureliano José mà không bị nhìn thấy, rồi biến mất khi chui vào kho ngô, rồi
xuất hiện ở nhà bếp nơi Úrsula đang đập ba mươi sáu quả trứng để làm bánh” [7,
tr. 171]. Lần theo vết máu đó, Úrsula tìm được thi thể của con trai mình. Mùi
thuốc súng khét lẹt trên thi thể không thể nào tẩy rửa đi được, ngay cả khi người
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
73
ta ướp xác ông với muối tiêu, rau thìa là, lá nguyệt quế và ninh tử thi trên bếp
lửa âm ỉ suốt một ngày. Thậm chí đến khi đã xây mộ bê tông và rắc vôi bột, mùi
khét lẹt đó vẫn không mất đi. Sau này, công ty chuối đã phải chọn giải pháp đổ
chiếc áo bê tông để úp lên ngôi mộ. Cái chết của José Arcadio mãi mãi không
bao giờ tìm ra thủ phạm. Và trong bản định mệnh của dòng họ này, văn bản tiếng
Phạn cũng không lí giải về cái chết của anh. Hình tượng dòng máu của người
chết chảy từ nghĩa địa len lỏi về tận nơi đã sinh ra mình, và dừng lại ở trước
đáng sinh thành ra nó chỉ có thể xuất hiện trong tư duy huyền thoại.
Hình tượng này rất gần gũi với hình tượng lá rụng về cội của Việt Nam. Con
người ta, dù chết do bất kỳ nguyên nhân và ở địa điểm nào, cũng đều mong
muốn được về nơi mình đã sinh thành và lớn lên. Suốt cuộc đời tung hoành, đi
đây đi đó, ngang ngược chỉ làm theo ý mình, nhưng khi chết đi, José Arcadio
vẫn mong muốn được trở về nhà. Nó không còn là dòng máu của người đã khuất,
mà đã hóa thân vào nỗi khát khao và hoàn thành tâm nguyện của chủ nhân. Sự
cô đơn, lạc lõng trong sâu thẳm trái tim, ước mong có được tình yêu của người
mẹ vẫn còn nóng hổi trong tâm thức người đã khuất. Cuộc hôn nhân của anh đã
không được gia đình chấp nhận, sẵn sằng dọn ra căn nhà giữa nghĩa địa, hết lòng
với vợ, nhưng anh vẫn rất cần tình yêu thương, che chở của gia đình, đặc biệt là
của mẹ.
Sau khi chồng chết, Rebeca gần như chôn sống mình trong nhà, mặc chiếc áo
vải thô cũ nát. Năm tháng qua đi, người ta đã dần quên Rebeca, quên đi sự tồn
tại của người đàn bà bất hạnh trong căn nhà đó. Dân làng chỉ gặp bà ra đường
vào thời điểm quỷ dữ Judio Erangte xuất hiện. Hình ảnh Rebeca già nua, đi đôi
ủng trắng bạc cũ kỹ, đội chiếc mũ có gài những bông hoa nhỏ li ti bước ra từ
“căn phòng chết” được đặt cạnh hình ảnh chim chóc không chịu được nóng lao
đầu qua lưới sắt để rúc vào phòng ngủ mà chết làm cho cái chết càng trở nên
tang thương.
Ngôi nhà của Rebeca nằm giữa sự sống và cái chết, âm và dương. Nó dường
như có sức chống chịu với mọi tang thương của cuộc đời bằng cách chôn sống chủLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
74
nhân của nó. Trong ngôi nhà ấy, vợ chồng Rebeca đã từng thỏa mãn cơn khát
nhục dục của mình, cầu mong cho khỏi kinh động đến các linh hồn nằm dưới đất.
Cũng tại đó, hai người chủ của nó lần lượt ra đi theo những cách khác nhau nhưng
kết quả lại giống nhau: cả hai đều bị Macondo lãng quên. Mặc dù thi thể của José
Arcadio cố gắng để khẳng định sự tồn tại của nó bởi mùi thuốc súng khét lẹt
nhưng cuối cùng vẫn bị công ty chuối lấp đi bằng chiếc áo bê tông. Dù cố gắng để
khẳng định sự hiện hữu của mình trên đời nhưng José Arcadio Buendía không
được chấp nhận.
Không gian dòng họ Buendía gắn liền với số phận của các nhân vật. Như một
hình tròn không có điểm đầu và cuối, không gian dòng họ này khơi gợi những
thắc mắc, ham muốn tìm hiểu ý nghĩa đằng sau không gian ấy.
Không gian dòng họ Buendía đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm. Cùng
với không gian Macondo, không gian dòng họ Buendía tạo tính hoàn chỉnh cho
tác phẩm. Nó làm tác phẩm trở nên hư hư thực thực, đan xen lẫn lộn giữa hiện
tại và quá khứ, giữa mộng mơ và thực tại.
* Tiểu kết:
Xuất phát từ những không gian hết sức gần gũi với cuộc sống: một ngôi làng,
căn phòng, ngưỡng cửa, Márquez đã tô điểm cho nó trở nên sinh động, thậm chí
kỳ bí bởi kỹ thuật huyền ảo. Sự hiện diện của những bóng ma, linh hồn, những
hiện tượng thiên nhiên kì lạ đã nâng tầm nó thành một mê lộ không gian khiến bất
cứ ai lạc vào đó cũng thấy thực hư lẫn lộn. Nhưng đó là những điều kỳ bí mà hiển
nhiên nó phải thế. Người ta sẽ không thắc mắc tại sao lại có những cơn mưa hoa
vàng, tại sao trời đất lại mưa nắng kéo dài tưởng như vô tận vậy. Bởi lẽ định mệnh
của dòng họ Buendía phải thế.
Huyền thoại về Macondo gắn liền với những con người, số phận được định sẵn.
Gắn với các nhân vật là những căn phòng mang hơi thở chết chóc của họ. Nếu như
trong khi xây dựng nhân vật, mặc dù dùng thủ pháp trùng lặp tên từ thế hệ này sang
thế hệ khác, nhưng độc giả vẫn có thể nhận diện họ bởi những nét điển hình thì nhắc
đến một không gian đặc trưng, hình ảnh nhân vật gắn với nó lập tức xuất hiện và
ngược lại. Không gian không còn là yếu tố vô tri vô giác mà trở nên có hồn, hòa
cùng nhịp đập của các nhân vật
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
75
KẾT LUẬN
Đại thi hào R.Targo từng nói: “Một trong những cách làm cho con người bất
tử, chính là việc biết mở rộng bản sắc của mình”. “Mở rộng bản sắc” là gì nếu
không phải là hướng đến cái đích cuối cùng, để cho người đời nhớ tới. Muốn thế,
cuộc sống phải có ý nghĩa đúng như Márquez nói: “Người ta không chết khi phải
chết mà chỉ chết khi có thể chết” (A person didn’t die when he should but when
he can). Với ngòi bút đại tài, Márquez đã chứng minh cô đơn là cách con người
tự hủy diệt mình nhanh nhất. Ông kêu gọi con người sống yêu thương đoàn kết
vì lẽ sống tốt đẹp nhất là sống vì mọi người, để phấn đấu cho cộng đồng, cho sự
nghiệp chung.
Thời gian sẽ cho thấy liệu Márquez có vai trò quan trọng với nền văn học viết
bằng tiếng Tây Ban Nha như Cervanter không nhưng có một điều không thể phủ
nhận là ông đã thổi vào tiếng Tây Ban Nha - ngôn ngữ của hơn năm trăm triệu
người trên thế giới một luồng sinh khí mới. Qua việc nghiên cứu thời gian và
không gian huyền thoại trong tác phẩm, chúng tui rút ra một số kết luận sau:
1. Trên thế giới, phê bình huyền thoại là phương pháp khá phổ biến và đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Trong khi đó ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn khá mới
mẻ. Tuy đã có một số công trình tiếp cận phương pháp này: Nguyễn Đức Nam về
J. Joyce; Đặng Anh Đào về Kafka; Lê Ngọc Tân về Zola hay Nguyễn Trung Đức
về Márquez… nhưng những con số ấy còn quá ít ỏi. Hơn nữa, tính ứng dụng và
khả năng thành công của phương pháp này còn khá mơ hồ, vẫn còn trong giai
đoạn trứng nước. Mặt khác, xu hướng sáng tác huyền thoại hóa ở Việt Nam những
năm gần đây (tiêu biểu là sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp) đã bắt đầu được quan
tâm. Vì thế, xây dựng, phát triển hệ thống lí thuyết về phê bình huyền thoại và áp
dụng hữu hiệu phương pháp này vào nghiên cứu văn học là một yêu cầu cấp thiết
đặt ra.
2. Văn học Mỹ Latinh, đặc biệt là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỉ XX với
các sáng tác của Carpentier, Márquez, Asturias… là một địa hạt khá thú vị. NhữngLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
76
năm 60, Mỹ Latinh với những ưu việt trong sáng tác văn học đã trở thành một lục
địa bùng cháy với sự giàu có không lặp lại của mình trên văn đàn thế giới. Ở Việt
Nam, trong cả nghiên cứu và giảng dạy, sự quan tâm dành cho mảng văn học này
rất ít. Vì thế, đầu tư nghiên cứu thành tựu, hạn chế của văn học Mỹ Latinh không
những góp phần hoàn thiện cái nhìn về văn học thế giới mà còn phát triển lí luận
văn học trong nước.
3. Márquez là một nhà văn xuất sắc của văn học huyền ảo Mỹ Latinh nói riêng
và văn học thế giới nói chung. Tác phẩm của ông đã được dịch ở Việt Nam: Tình
yêu thời thổ tả; Tập truyện ngắn; Trăm năm cô đơn; Ngài đại tá chờ thư…
Nhưng việc đọc, hiểu Márquez còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do nền lí
luận và phê bình huyền thoại của chúng ta còn non nớt, ngôn ngữ Tây Ban Nha
lại không phổ biến, nên việc tiếp cận một tác phẩm tầm cỡ thế giới như vậy
không phải là dễ dàng. Thiết nghĩ, nghiên cứu và tìm hiểu tác giả bậc thầy về
tiểu thuyết huyền ảo và học hỏi kĩ thuật viết của ông là một điều hết sức hữu ích.
4. Thời gian trong tác phẩm mang tính uẩn ảo và không đi theo một đường
thẳng làm nên chất liệu huyền thoại cho nó. Nhịp điệu và tốc độ kể chuyện chậm
rãi, cùng với sự sai trật niên biểu làm cho thời gian không còn mang tính vật lí
thông thường. Ngày tháng không chuyển động về phía trước mà chuyển động
vòng tròn. Tùy theo mức độ quan trọng, các sự kiện sẽ được đặt ở những vị trí và
chiếm số trang khác nhau. Lối quay ngược, đón trước khiến cho tác phẩm trở
nên hấp dẫn. Người đọc háo hức, trông đợi những sự kiện đã được báo trước và
lặng mình theo dõi những hồi ức để hiểu thêm hiện tại. Kĩ thuật tỉnh lược khiến
bản nhạc trầm có thêm những nốt bổng. Ở đó, thời gian trôi nhanh hơn bình
thường, con người trở nên gấp gáp hơn nhưng vẫn là sự gấp gáp trong vòng tròn
định mệnh. Điềm báo khiến vết xe thời gian in dấu rõ trong từng nhân vật và trở
nên kì bí hơn. Trong suốt 100 năm, bài toán thời gian hóc búa ấy vẫn không có
lời giải đáp. Vì thế, những sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian ấy sẽ mãi mãi
ám ảnh độc giả và những người trong cuộc.
5. Không gian trong Trăm năm cô đơn cũng lấp lánh màu sắc huyền thoại.
Một Macondo - thế giới của những biểu tượng. Không gian tưởng tượng tấm da
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiLuận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hảo - Cao học Văn K52
77
thuộc với những lời tiên tri của Melquíades dẫn người đọc vào mê lộ tự sự.
Ngôi nhà của dòng họ Buendía qua bao thăng trầm, dung chứa những biến đổi
không thể giải thích nổi. Ở đó, bảy thế hệ của dòng họ lần lượt ra đời, trưởng
thành và đi đến tuyệt diệt theo những đường mòn. Không gian căn phòng, xưởng
thí nghiệm luôn luôn tù đọng, tối tăm và đặc biệt là không có sự sống. Độc giả
được đưa đến không gian thu nhỏ của thế giới thứ ba, nơi mà tất cả các chế độ từ
nguyên thủy, bộ lạc, phong kiến, tư bản, hiện đại, siêu hiện đại, công nghiệp và
cách mạng đều song song tồn tại. Hiện tại còn mang nặng những tàn tích của quá
khứ. Thế giới ấy bản thân nó đã mang tính huyền thoại. Khi đi vào tác phẩm của
Márquez, nó trở thành không gian chủ đạo của tác phẩm.
6. Không-thời gian huyền thoại trong tác phẩm góp phần quan trọng trong
việc thể hiện ý nghĩa tác phẩm. Tác phẩm mang tựa đề Trăm năm cô đơn nhưng
nhân vật nhiều tuổi nhất sống đến 145 tuổi. Căn bệnh cô đơn truyền kiếp của
dòng họ Buendía không chỉ tồn tại 100 năm như tựa đề tác phẩm mà trải dài vô
tận trong không gian và thời gian. Nó có thể xuất hiện bất cứ thời điểm nào, bất
cứ nơi nào trên hành tinh này nếu con người sống không có tình yêu và cộng
đồng. Các nhân vật trong tác phẩm giờ đã là người của muôn năm cũ nhưng sẽ
mãi mãi hiện hữu trên hành tinh này để nhắc nhở tình đoàn kết và giá trị đích
thực của cuộc sống. Cuộc sống là bài toán sử dụng thời gian hóc búa mà suốt
100 năm dòng họ Buendía không tìm ra lời giải, cũng chính là ám ảnh với nhân
loại, đồng thời đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Trong phạm vi luận văn này, do thời lượng viết và số lượng văn bản có hạn
nên chúng tui chỉ dừng lại phân tích thời gian và không gian huyền thoại trong
tác phẩm Trăm năm cô đơn (có liên hệ với những tác phẩm khác). Hướng nghiên
cứu này có thể mở rộng đối với toàn bộ sáng tác của Márquez nói riêng và toàn
bộ các sáng tác thuộc mảng văn học hiện thực huyền ảo nói chung, nhằm có cái
nhìn hoàn thiện hơn về văn học thế giới.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D hoàn thiện bố trí và sử dụng nhân viên lễ tân khách sạn crowne plaza west hanoi trong thời gian tới Văn hóa, Xã hội 0
D Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị Văn hóa, Xã hội 0
G Phân tích thiết kế hệ thống thời gian thực và ứng dụng trong hàng không Luận văn Kinh tế 0
L Chuỗi thời gian và ứng dụng trong bài toán quản lý Luận văn Kinh tế 0
C Các biện pháp nâng cao quy trình đón tiếp và phục vụ khách trong thời gian lưu trú của bộ phận lễ tân tại khách sạn Vĩnh Khánh Luận văn Kinh tế 3
M Hoàn thiện quy trình đón tiếp và phục vụ khách trong thời gian lưu trú tại bộ phận lễ tân của khách sạn Vĩnh Khánh Luận văn Kinh tế 2
H Thực trạng và giải pháp Đầu tư phát triển nghành Mía đường ở Việt Nam trong thời gian qua Luận văn Kinh tế 0
S Đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng và rút ngắn thời gian sản xuất trong sản phẩm gốm Bát Tràng Luận văn Kinh tế 2
G Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ nước, thời gian mạ băng và khối lượng miếng cá Fillet đến tỉ lệ mạ b Khoa học Tự nhiên 2
T Nâng cao chất lượng và thời gian bảo quản sản phẩm nước bưởi đóng chai Khoa học Tự nhiên 2

Các chủ đề có liên quan khác

Top