tungb0p

New Member

Download miễn phí So sánh hệ thống pháp luật lao động Việt Nam với các công ước của ilo liên quan đến vấn đề lao động trẻ em





LỜI GIỚI THIỆU

CHƯƠNG I. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN

VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM

1.1 Những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về

 công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

1.2 Hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

1.3 Hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề lao động trẻ em

 ở Việt Nam

CHƯƠNG II. SO SÁNH HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỚI CÁC CÔNG ƯỚC CỦA ILO LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM

CHƯƠNG III. ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI VÀ BỔ SUNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM

KẾT LUẬN

PHỤ LỤC

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


, cụ thể hoá và làm sâu sắc hơn về mặt nội dung trong các văn bản pháp luật ở hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt đối với vấn đề lao động trẻ em. Mối quan tâm này càng thể hiện rõ hơn khi Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành các luật quan trọng: Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học năm 1991 và Bộ luật Lao động năm 1994. Các Luật này đã góp phần hạn chế được tình trạng trẻ em phải lao động sớm và tạo ra bước chuyển biến trong ý thức cũng như trong hành động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội cũng như của các đối tượng.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam còn ở mức phát triển thấp, tỷ lệ hộ đói cùng kiệt còn cao, nhưng không thể lấy lý do đói cùng kiệt để chậm hành động cho việc chống lại sự tuyển dụng trẻ em vào làm những công việc có điều kiện nguy hiểm và độc hại cho sức khoẻ của các em. Do đó chỉ có những chính sách kinh tế thúc đẩy sự phát triển của người cùng kiệt trong dân cư mới có khả năng có nhiều tác dụng đối với việc giải quyết vấn đề lao động trẻ em.
Bài viết này nhằm đưa ra một đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề lao động trẻ em cũng như những khuyến nghị đối với việc sửa đổi và bổ sung cần thiết để tạo ra một hàng rào pháp luật có hiệu quả để bảo vệ các quyền của trẻ em.
Chương I. Hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề lao động trẻ em
1.1 Những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Tại Hội nghị toàn quốc về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nêu rõ “một trong những quan điểm cơ bản chi phối toàn bộ đường lối của đảng ta là coi trọng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trẻ em là lớp măng non, là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc. Các em sẽ là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng khi các em còn chưa phát triển đầy đủ, còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, dễ bị tổn thương thì việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn luôn là mối quan tâm đặc biệt, hàng đầu của đảng và Nhà nước ta”. Đồng thời đồng chí Tổng Bí thư còn nhấn mạnh rằng “ở phạm vi quốc gia, ưu tiên cho trẻ em có nghĩa là các vấn đề chăm sóc, bảo vệ, phát triển trẻ em, trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước phải thực hiện chính sách đầu tư ngày một tăng, để mọi trẻ em đều có cơ hội được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, văn hoá thể thao.. một cách bình đẳng” Bài phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu - Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam tại Hội nghị toàn quốc về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tháng 6 năm 1998.
.
Những quan điểm chỉ đạo này đã được thể hiện rất rõ trong hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong đó có vấn đề lao động trẻ em.
1.2 Hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định ngay trong Hiến pháp từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp 1992 các quyền của trẻ em. Trong Hiến pháp năm 1992, vấn đề chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đã được đề cập nổi bật trong các điều 35, 40, 59 và 65. Năm 1991, ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Việt Nam được thành lập - cơ quan của Chính phủ chuyên trách theo dõi, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan để giúp Nhà nước ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật về chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Trong các văn bản pháp luật về chăm sóc và bảo vệ trẻ em đã phản ánh được các quyền cơ bản: được nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, hướng nghiệp, dạy nghề, bày tỏ ý kiến,… Thực hiện các chính sách và văn bản pháp luật nêu trên đã có nhiều thành tựu trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội, đặc biệt các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và trợ giúp xã hội, góp phần hạn chế được tình trạng trẻ em phải tham gia lao động sớm.
Giáo dục là một trong những quốc sách và lĩnh vực ưu tiên hàng đầu ở Việt Nam. Đi học và biết chữ là những chỉ số quan trọng về chất lượng cuộc sống và cũng là những nhân tố quyết định đối với khả năng của những người cùng kiệt đạt tới những cơ hội có thể tạo nên thu nhập khá hơn. Vì vậy, sau một vài năm bị hạn chế về nguồn ngân sách, vào cuối những năm 80 và đầu năm 90 Chính phủ đã tăng nguồn hỗ trợ cho giáo dục và đưa ra các chính sách về giáo dục nhằm hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế, những gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Nhà nước cũng có những chính sách miễn học phí cho cấp tiểu học, chính sách miễn, giảm học phí và các đóng góp khác cho học sinh con em các gia đình cùng kiệt trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia xoá đói giảm cùng kiệt và các ưu đãi khác cho trẻ em dân tộc thiểu số. Nhờ vậy tỷ lệ đến trường ở cấp tiểu học và trung học cơ sở đã tăng và tỷ lệ trẻ em bỏ học giảm xuống vào những năm đầu của thập kỷ 90. Theo báo cáo của ủy ban Quốc gia đánh giá giáo dục cho mọi người đến năm 2000, trong giai đoạn 1993 - 1998 các chỉ tiêu về giáo dục tiểu học đã có nhiều tín hiệu khả quan, ví dụ như tỷ lệ trẻ em tham gia các chương trình giáo dục đã tăng từ 91,25% lên 96,7% và tỷ lệ học sinh hoàn thành các chương trình học tăng từ 54,55% lên 66,3%. Trong khi đó tỷ lệ trẻ em lưu ban giảm từ 6,2% xuống 3,6% và tỷ lệ trẻ em bỏ học cũng giảm từ 6,6% xuống 5,8% Dự thảo báo cáo của ủy ban Quốc gia đánh giá giáo dục cho mọi người đến năm 2000
.
Những năm qua Việt Nam đã có chính sách trợ giúp cho một số đối tượng yếu thế như trẻ em tàn tật, trẻ em lang thang và mồ côi. Từ 1990 đến 1997 mức chi cho các dịch vụ lưới an sinh xã hội đã tăng 9,3 lần và chiếm 14% tổng chi ngân sách Nhà nước. Các chính sách này đã góp phần cải thiện vấn đề phúc lợi xã hội của người Việt Nam nói chung và trẻ em nói riêng.
1.3 Hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam
Vấn đề cấm sử dụng trẻ em tham gia lao động sớm đã được đề cập từ rất sớm trong các văn bản pháp qui của Nhà nước Việt nam Sắc lệnh số 29-SL ngày 12-3-1947 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành
. Tuy nhiên, vấn đề lao động trẻ em lần đầu tiên được đề cập trong “Báo cáo đầu tiên về hai năm thực hiện Công ước về Quyền trẻ em” của Chính phủ gửi Uỷ ban của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em trong năm 1992.
ở Việt Nam hầu hết trẻ em có tham gia làm việc để giúp đỡ cha mẹ trong các công việc vặt gia đình hay tham gia lao động để góp thêm thu nhập. Các hoạt động lao động mà trẻ em tham gia giúp các em trưởng thành, có thêm kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, phát triển trí lực, thể lực và nhân cách chuẩn bị cho cuộc sống ngày mai. Tham gia lao động làm cho các em thêm lòng tin, sự tự trọng và giúp các em hoà nhập, gắn bó hơn với cộng đồng. Chính vì vậy, với cách nhìn thực tế luật pháp Vi

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top