Download miễn phí Quản lý tri thức-Một xu hướng của quản trị kinh doanh hiện đại





Tri thức là gì?
Nhiều người theo chủ nghĩa thực chứng tin rằng tri thức là những “niềm tin được
minh chứng là đúng” (“justified beliefs). Nonaka và Takeuchi (1995) chỉ ra ràng
“tri thức là quá trình năng động của con người trong việc minh chứng các niềm tin
cá nhân với những “sự thật””. Sự tiến hóa của nhận thức luận khoahọc đã hình
thành một cấu trúc thứ bậc của việc tạo ra tri thức: từ dữ liệu đến thông tin đến
kiến thức như được trình bày trong Sơ đồ 1. Trong sơ đồ 1 có những khái niệm
cần quan tâm đó là dữ liệu, thông tin, tri thức.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Quản lý tri thức-Một xu hướng của quản trị kinh
doanh hiện đại
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra một cách nhanh chóng trên toàn
thế giới, cùng với sự phát triển với tốc độ chóng mặt của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật và công nghệ, các công ty đối mặt với rất nhiều cơ hội và thách thức do
toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ mang lại. Nguồn
nhân lực đã trở thành “một tài sản quý nhất, quan trọng nhất và quyết định nhất”
cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một tổ chức nào. Song, khi chúng ta nói về
những nhận thức được hầu hết mọi người chấp nhận này thì cần hiểu đó là
nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ năng ở trình độ cao, biết lao động sáng tạo chứ
không phải sức lao động cơ bắp dựa trên kinh nghiệm. Lực lượng lao động xã hội
đã có sự chuyển biến rõ rệt từ những công nhân “cổ xanh” là chủ yếu thành những
công nhân “cổ trắng” là chủ yếu. Peter Drucker (1993)-một chuyên gia hàng đầu
của lý luận quản lý- đã nhận xét rằng: “Trong thời kỳ 1880, khoảng chín phần
mười số người lao động là lao động chân tay; ngày nay, con số này giảm xuống
một phần năm. Bốn phần năm lực lượng lao động là những người lao động tri
thức”.
Toàn cầu hóa đã làm cho việc tiếp cận và mở rộng các thị trường dễ dàng hơn, các
công ty dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực tốt nhất và rẻ nhất cho họat
động của mình và vì thế các lợi thế so sánh truyền thống đã mất đi, hay ít nhất đã
yếu đi. Vì thế, Drucker (1995) kết luận: “Chúng ta đang đi vào xã hội tri thức
trong đó nguồn lực kinh tế cơ bản không phải là vốn mà là và sẽ là tri thức” và “tri
thức đã và đang trở thành một nguồn lực kinh tế chủ yếu và là một nguồn lực
thống trị - và có thể là duy nhất - của lợi thế cạnh tranh. Những nhận xét của
Drucker hoàn toàn phù hợp với những dự báo từ trước của Alvin Tofler trong các
tác phẩm nổi tiếng của ông về một xã hội tri thức, một nền văn minh thông tini.
Sự bùng nổ thông tin và tri thức với tốc độ chóng mặt hiện nay đã làm cho những
người lao động và các tổ chức khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề của
mình. Trong điều kiện bùng nổ của tri thức và thông tin, sự quá tải thông tin trở
thành một gánh nặng và vì thế để tìm được những thông tin cần thiết cho việc ra
quyết định hay gỉải quyết vấn đề là cực kỳ khó và là một quá trình tốn kém rất
nhiều thời gian và công sức cho tất cả mọi người hiện nay. Trong một cuộc hội
thảo về quản lý tri thức, Bill Gate (1999) đã nhận xét: “Những người công nhân trí
thức cần chia sẻ những hiểu biết của họ, và cần tiếp cận những thông tin đúng (cần
thiết) vào đúng thởi điểm. Và điều này là cực kỳ khó hiện nay” (Trích từ VNU
Business Media). Để giúp cho các tổ chức và cá nhân xử lý và giải quyết tốt các
vấn đề của mình cũng như để nâng cao hiệu quả của các quyết định nói chung, với
sự phát triển của công nghệ thông tin, từ đầu những năm 1990 trở lại đây, các công
ty trên thế giới và các nhà nghiên cứu đã áp dụng và tiếp cận một xu hướng mới
trong phát triển doanh nghiệp và các tổ chức đó là: Quản lý tri thức (Knowledge
Management).
Việc sớm và kiên trì ứng dụng quản lý tri thức vào quản lý và họat động của doanh
nghiệp dù dù trong một thời gian ngắn ngủi đã mang lại những kết quả khích lệ.
Cuộc khảo sát của Reuters vào năm 2001 chỉ ra rằng 90% các công ty triển khai
các giải pháp quản lý tri thức đă có những quyết định tốt hơn, và 81% công ty cho
rằng họ nhận thấy sự gia tăng năng suất một cách rõ rệt (Malhotra, 2001).
Tri thức là gì?
Nhiều người theo chủ nghĩa thực chứng tin rằng tri thức là những “niềm tin được
minh chứng là đúng” (“justified beliefs). Nonaka và Takeuchi (1995) chỉ ra ràng
“tri thức là quá trình năng động của con người trong việc minh chứng các niềm tin
cá nhân với những “sự thật””. Sự tiến hóa của nhận thức luận khoa học đã hình
thành một cấu trúc thứ bậc của việc tạo ra tri thức: từ dữ liệu đến thông tin đến
kiến thức như được trình bày trong Sơ đồ 1. Trong sơ đồ 1 có những khái niệm
cần quan tâm đó là dữ liệu, thông tin, tri thức.
Dữ liệu là một tập hợp các sự kiện, sự việc khách quan, rời rạc được trình bày mà
không có sự phán quyết hay không gắn với bối cảnh. Dữ liệu trở thành thông tin
khi nó được phân lọai, phân tích, tổng hợp và đặt vào một bối cảnh, và trở nên có
thể nhận thức được đối với người nhận.
Thông tin là dữ liệu gắn với một sự liên hệ hay một mục đích. Thông tin biến
thành kiến thức khi nó được sử dụng để so sánh, đánh giá những kết cục, thiết lập
những liên hệ và tiến hành một sự đối thọai. Thông tin là dữ liệu trong bối cảnh
mà nó có thể sử dụng cho việc ra quyết định. Dữ liệu luôn được sắp xếp để tạo ra ý
nghĩa cho người nhận, nó có thể là văn bàn, hình ảnh, film, hay một cuộc hội
thọai với một người khác.
Tri thức có thể được xem như thông tin mà nó đạt tới sự sáng tỏ, sự phán quyết,
và những giá trị. Trong nhiều trường hợp, tri thức thể hiện sự thật và vì vậy nó
cung cấp, tạo ra những cơ sở đáng tin cậy cho hành động. Tri thức là kho tàng của
sự hiểu biết và các kỹ năng được tạo ra từ trí tuệ của con người (đặc biệt từ những
người khác).
Nguồn: Serban, A. M. & Luan, J., “Overview of knowledge management”. New
Direction for Institutional Research, No. 113, pp 9.
Sự thông thái có thể được mô tả như những sử dụng tốt nhất của tri thức. Quá trình
tri thức có thể luôn được hoàn thiện nhưng sự thông thái là cần thiết để xác định
quá trình nào là nên chú trọng để đạt tới các mục tiêu của cá nhân hay tổ chức.
Đây thực chất là quá trình ra quyết định và giải quyết vấn đề một cách thành công
của bất kỳ một cá nhân và tổ chức nào. Sự sáng tạo trong giải quýêt vấn đề chính
là động lực chủ yếu cho việc tạo ra và cách tân tri thức. Cần thấy rằng khi dữ liệu
và thông tin được xử lý và diễn đạt, và trở nên có ý nghĩa thông qua quá trình tư
duy có phê phán, dữ liệu và thông tin trở nên sẽ trở nên có giá trị hơn và tính sử
dụng cao hơn.
Tri thức hiện hữu (explicit knowledge) và tri thức ẩn tàng (tacit knowledge). Một
khảo sát năm 2001 (Malhotra) chỉ ra rằng “trung bình 26% tri thức trong tổ chức
được lưu trữ trong văn bản (giấy tờ, sách, tài liệu), 20% được lưu trữ bằng kỹ thuật
số, và 42% được lưu trữ trong đầu của người lao động”
Trong tác phẩm có sức ảnh hưởng rất mạnh của mình–Công ty Sáng tạo Kiến
thứciii–Nonaka và Takeuchi (1995) đã phân biệt tri thức hiện hữu và tri thức ẩn
tàng. Tri thức hiện hữu là các tri thức được hệ thống hóa trong các văn bản, tài
liệu, hay các báo cáo, chúng có thể được chuyển tải trong những ngôn ngữ chính
thức và có hệ thống; trong khi đó, tri thức ẩn tàng là nhưng tri thức không và rất
khó được hệ thống hóa trong các văn bản, tài ...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
A Bàn về công tác quản lý và tổ chức hạnh toán Thuế giá tri gia tăng trong các doanh nghiệp ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
T ĐÔI ĐIỀU VỀ QUẢN LÝ TRI THỨC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Luận văn Kinh tế 0
D LÝ THUYẾT VÀ ỨNG DỤNG QUẢN LÝ TRI THỨC (KM) THEO ISO 9001:2000 HỖ TRỢ HỆ THỐNG CHẤT LƯỢNG (SQS) Công nghệ thông tin 0
L Tri thức địa phương về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Mường ở xã Cẩm Thàn Văn hóa, Xã hội 0
Q Biện pháp quản lý công tác thiết bị dạy học tại các cơ sở đào tạo giáo viên thụ hưởng Dự án Phát tri Luận văn Sư phạm 0
K Quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học Nguyễn Tri Phương, quận Hồng Bàng - Luận văn Sư phạm 0
Z Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng góp phần bảo tồn đa dạng sinh học tại cộng đồng dân t Khoa học Tự nhiên 0
N Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro trong thẩm định dự án cho vay vốn tại ngân hàng Đầu Tư & Phát Tri Tài liệu chưa phân loại 0
R Nhu cầu quản lý tri thức trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Tài liệu chưa phân loại 0
M Hướng vận dụng tri thức về nhu cầu của con người vào công tác quản lý Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top