daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối


Mục lục
Trang
Mở đầu

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

2

3. Mục đích nghiên cứu

7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

8

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


8

6. Phương pháp nghiên cứu

8

7. Đóng góp của khoá luận

8

8. Bố cục của khoá luận

9

Nội dung

10

Chương 1: Những vấn đề chung

10

1.1. Khái niệm tư tưởng và cách hiểu, sử dụng khái niệm trong khóa

10

luận

10


1.1.1 Khái niệm tư tưởng

11

1.1.2 Cách hiểu và sử dụng khái niệm tư tưởng
1.2. Vai trò ý nghĩa của việc tìm hiểu tư tưởng của nhà văn trong quá

11

trình nghiên cứu văn học

13

1.3. Những yếu tố tác động tới tư tưởng của Thạch Lam Nam Cao

13

1.3.1 Hoàn cảnh xã hội

15

1.3.2. Hoàn cảnh riêng

5


Chương 2 : Những điểm tương đồng trong quan niệm nghệ thuật

20


của Thạch Lam và Nam Cao

20

2.1. Tương đồng trong quan niệm nghệ thuật về con người

20

2.1.1 Con người với đời sống nội tâm

23

2.1.2 Con người gắn với sự tác động của ngoại cảnh

26

2.2. Tương đồng trong quan niệm về nghệ thuật

26

2.2.1. Nghệ thuật tôn trọng hiện thực

28

2.2.2. Nghệ thuật phải sáng tạo

30

2.2.3. Nghệ thuật phải nhân văn


32

2.3. Tương đồng trong quan niệm về người nghệ sĩ

32

2.3.1. Người nghệ sĩ phải có trách nhiệm trong nghề nghiệp

34

2.3.2. Người nghệ sĩ phải có phẩm chất trung thực
Chương 3 : Những điểm tương đồng trong thái độ, tình cảm của

37

Thạch Lam và Nam Cao

37

3.1. Tương đồng trong thái độ căm ghét, tố cáo xã hội vô nhân đạo
3.1.1. Tố cáo xã hội vô nhân đạo đẩy con người vào tình cảnh bế tắc,

37

tuyệt vọng

42

3.1.2. Tố cáo xã hội vô nhân đạo đẩy con người vào tình trạng tha

hóa

45

3.2. Sự cảm thông sâu sắc, thái độ trân trọng, tấm lòng xót thương

45

người lao động
3.2.1. Cảm thông sâu sắc đối với người lao động

48

3.2.2. Nâng niu, trân trọng những khát vọng, ước mơ cao đẹp của con

51

người

55

3.2.3.Tìm và khẳng định vẻ đẹp trong tâm hồn con người

57

Kết luận
Thư mục tham khảo

6


mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Thạch Lam và Nam Cao là những đại biểu xuất sắc của dòng văn học
1930 - 1945 và còn là hai trong những tác gia tiêu biểu nhất của văn học Việt
Nam thế kỉ XX. Những sáng tác của Thạch Lam và Nam Cao đã vượt qua thử
thách khắc nghiệt của thời gian và càng thử thách giá trị càng bền vững, sáng
ngời.
Thạch Lam và Nam Cao khép lại đời văn khi còn rất trẻ. Hai ông để lại
trong kho tàng văn chương dân tộc số lượng tác phẩm không mấy đồ sộ nhưng
lại luôn ẩn chứa sức sống, sức bền lâu của một giá trị văn chương đích thực.
Với những tác phẩm đó, Thạch Lam - Nam Cao đã tạo cho mình một phong
cách riêng, một dấu ấn độc đáo và có những đóng góp quan trọng vào tiến
trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc. Làm nên giá trị to lớn của các tác
phẩm không chỉ là tài năng, tâm huyết của người nghệ sĩ mà còn đặc biệt nói
tới tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn. Bên cạnh tài năng, tâm huyết, tư
tưởng nghệ thuật là tiêu chí có ý nghĩa quyết định để khẳng định tầm cỡ của
nhà văn đó.

7


Tìm hiểu nét tương đồng về tư tưởng của Thạch Lam và Nam Cao để
thấy rõ tài năng, vị trí của hai nhà văn trong nền văn học dân tộc, sự gặp gỡ
tuyệt vời của hai cây bút thuộc hai trào lưu khác nhau và thêm một lần nữa
khẳng định giá trị sâu sắc, độc đáo trong các tác phẩm của hai ông.
Mặt khác, Thạch Lam Nam Cao là hai tác giả được giảng dạy trong
chương trình từ trung học cơ sở, trung học phổ thông đến cao đẳng, đại học. ở
lớp 11, Thạch Lam được giảng dạy với tư cách là một tác giả thông qua đọchiểu tác phẩm Hai đứa trẻ. Đặc biệt, Nam Cao được đưa vào chương trình với
tư cách một tác gia văn học và được giới thiệu đọc hiểu hai truyện ngắn Chí

Phèo và Đời thừa. Bởi vậy, tìm hiểu đề tài Nét tương đồng về tư tưởng của
Thạch Lam và Nam Cao trong truyện ngắn trước Cách mạng còn do yêu cầu
phục vụ cho thực tế giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường phổ thông sau này.
Với tư cách là hai tác gia văn học có những đóng góp tích cực cho qúa
trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc, Thạch Lam Nam Cao luôn thu hút,
hấp dẫn độc giả khám phá và phát hiện. Bàn về tư tưởng của Thạch Lam Nam Cao đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết của nhiều tác giả.
Tuy nhiên nét tương đồng về tư tưởng của Thạch Lam và Nam Cao vẫn còn là
một vấn đề mới mẻ và cũng là vấn đề chúng tui tâm đắc nhất, rất mong được
tiếp cận.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam và Nam Cao là những đại biểu xuất sắc của văn học Việt
Nam 1930-1945. Cùng với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Thạch Lam và
Nam Cao được xếp vào bốn cây bút bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn. Thạch
Lam và Nam Cao đều đến với con đường văn chương từ rất sớm. Hai ông đã
dồn hết khả năng và tâm huyết vào văn chương, đã sáng tạo nên nhiều truyện
ngắn thực sự có giá trị. Song, nếu Thạch Lam bước trên con đường văn chương
một cách dễ dàng, có một cuộc sống tương đối dễ chịu thì Nam Cao lận đận
trong cuộc đời và cũng không may mắn trên con đường văn chương. Ông viết

8


văn từ năm 1936 và thử nghiệm qua nhiều thể loại với nhiều bút danh khác
nhau. Nhưng phải đến khi truyện ngắn Chí Phèo(1941) ra đời và với bút
danh Nam Cao, ông mới tạo dựng được cho mình một vị trí trên văn đàn Việt
Nam. Tuy có sự khác biệt về hoàn cảnh xuất thân và cách thức đến với văn
chương nhưng cả Thạch Lam và Nam Cao đã đều tạo dựng cho mình một
phong cách riêng, một vị trí xứng đáng trong dòng văn học Việt Nam.
Tìm hiểu về tư tưởng của hai ông đã có rất nhiều bài viết, nhiều công
trình nghiên cứu đề cập đến.

Ngay khi Gió đầu mùa - tập truyện ngắn đầu tay của Thạch Lam xuất
bản năm 1937, Khái Hưng đã khẳng định một cách dứt khoát: Thạch Lam là
nhà văn của những cảm xúc, cảm giác. Trong Một quan niệm về văn chương
(Tựa Gío đầu mùa) in trong Ngày nay, số 89, 12-12-1937, Khái Hưng viết :
Nếu ta có thể chia hai hạng nhà văn: nhà văn thiên về tư tưởng và nhà văn
thiên về cảm giác, thì tui quả quyết đặt Thạch Lam vào hạng dưới. ở chỗ mà
người khác dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ
nói, nói một cách rất giản dị cái cảm giác của ông.
Nguyễn Hoành Khung trong Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam
1930 1945, tập 1, NXB Khoa học xã hội, H.,1989 khẳng định : Ngòi bút
Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm
xúc, cảm giác; ông đặc biệt tinh tế khi diễn tả, phân tích những rung động bên
trong, những cảm giác mong manh, thoáng qua, những biến thái tinh vi của
tâm hồn trước ngoại cảnh. Thạch Lam đã tạo cho mình một lối truyện ngắn
riêng: loại truyện tâm tình. Cốt truyện của Thạch Lam thường ít hành động và
kịch tính mà giàu những chi tiết, những sự kiện của tâm trạng, của lòng người.
Ngòi bút Thạch Lam có khả năng phân tích một cách nhẹ nhàng, tỷ mỷ, sâu
sắc và gợi cảm những tình cảm, cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh.
Vương Trí Nhàn trong bài viết Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác,
Tạp chí Văn học, số 6, 1992 nhấn mạnh thêm một lần nữa xu hướng hướng

9


nội của ngòi bút Thạch Lam: Zatônxki, một nhà nghiên cứu Liên Xô trước
đây, trong một công trình nghiên cứu mang tên Nghệ thuật tiểu thuyết và thế
kỷ XX, đặc biệt đề cao một xu hướng phát triển trong tiểu thuyết, mà ông tạm
đặt tên là tiểu thuyết hướng nội. Thạch Lam của chúng ta như cũng bắt vào cái
mạch ấy. Hướng đi vào tâm lý của Thạch Lam là một hướng rất hiện đại. Với
ông, tâm lý trở thành cái bí mật lớn nhất cần được tìm hiểu. Thạch Lam đi

sâu khám phá thế giới tâm linh, những hoạt động tâm lý uyển chuyển sâu kín
của con người. Với Thạch Lam, trong tâm lý có cả lịch sử, xã hội. Bởi thế,
sáng tác của Thạch Lam không chỉ ghi lại những khoảnh khắc trong tâm hồn
của con người mà còn cho ta một bức tranh đời sống chân thực, sống động.
Bích Thu trong khi tìm hiểu Thạch Lam đã phát hiện ra sức hấp dẫn lôi
cuốn từ những sáng tác của Thạch Lam chính là sự quan sát bề trong, sự phân
tích, lý giải những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: Sáng tác
của Thạch Lam có sức hút người đọc ở mọi thời điểm, chính vì cái nhìn từ bên
trong, với nghệ thuật phân tích một cách tinh tế, sâu lắng những diễn biến tâm
lý phức tạp, những ăn năn, day dứt về tình cảm, về đạo dức một cách bản năng
hay ý thức để tự thức tỉnh phẩm chất người trong mỗi con người. Nhân vật
của Thạch Lam luôn có sự vận động, đấu tranh từ bên trong. Và sau những
day dứt, dằn vặt con người trở về với bản ngã của mình, với con người ở bên
trong con người. Có thể nói, những nhân vật của Thạch Lam dù ở trong
cảnh ngộ, tình huống nào cũng đều toát lên vẻ lương thiện, trong sạch, cũng
thường có sự tự vận động hướng tới cái Đẹp, tới sự cân đối hài hòa trong phẩm
cách con người ( Thạch Lam và kiểu nhân vật tự thức tỉnh, Thạch Lam văn
chương và cái Đẹp, NXB Hội Nhà văn, H.,1994).
Bùi Việt Thắng nhận thấy tuy viết về những cái nhỏ nhặt, có tính đời
thường nhưng Thạch Lam luôn có ý thức chắt chiu và bảo tồn cái đẹp có giá
trị văn hóa của cộng đồng dân tộc: Những chuyện mà Thạch Lam thuật lại
trong tác phẩm là những chuyện đời nhỏ nhoi, bình thường. Nhưng cái tài trên

10


hết là cái tâm của nhà văn đã giúp ông phát hiện ra những vẻ đẹp đã bị che
khuất. Ông là người có ý thức chắt chiu cái đẹp bình dị của cuộc sống cái
bình dị không làm giảm đi cái ý nghĩa sâu xa, to lớn về nhân sinh. Từ đó đi
đến kết luận: Cái đẹp mà Thạch Lam chăm chú phát hiện chính là đời sống

bên trong, đời sống tâm hồn đó là tình thương, lòng trắc ẩn, sự vị tha, giữa
người và người, giữa người với loài vật. Sáng tác của Thạch Lam thường có
những phát hiện mới, tế nhị và lắng đọng về tình người. Vì thế, mọi cử chỉ,
suy nghĩ, hành động của con người, dù thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau
nhưng hướng về cái đẹp, đều được Thạch Lam trân trọng, nâng đỡ. ( Người
chắt chiu cái Đẹp, Thạch Lam văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn,
H.,1994).
Bàn về Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Nhớ Nam Cao,
nghĩ về mấy bài học sáng tác của anh ( Nhà văn, tư tưởng và phong cách,
NXB Văn học, 1983) đã viết: Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề
nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người. Anh thường dễ bất bình
trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì bị đày đọa vào cảnh đói nghèo
cùng đường. Nhiều tác phẩm xuất sắc của anh đã trực diện đặt ra vấn đề này
và anh quyết đứng ra minh oan chiêu tuyết cho những con người bị miệt thị
một cách bất công. Nam Cao là nhà văn của những người khốn khổ, bất
hạnh. Viết về những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân
phong kiến, chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao không chỉ thể hiện thái độ cảm
thông, thương xót, mà còn lên tiếng bảo vệ, bênh vực, minh oan và chiêu tuyết
cho những con người thấp cổ bé họng bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ
một cách bất công.
Nguyễn Văn Hạnh một lần nữa khẳng định giá trị nhân đạo trong các
sáng tác của Nam Cao. Trong bài viết Nam Cao và khát vọng về một cuộc
sống lương thiện, xứng đáng, trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà
văn, H., 1992, Nguyễn Văn Hạnh viết: Thái độ cảm thông trân trọng đối với

11


con người đã giúp tác giả (...) phân biệt rõ bản chất tốt đẹp và cái bề ngoài
nhiều khi rất dị dạng, ghê tởm của con người. Chủ nghĩa nhân đạo của Nam

Cao bao giờ cũng đặt con người ở trung tâm cuộc sống, buồn cho con người
mà vẫn tin ở con người, tin ở bản tính lành mạnh tốt đẹp ở con người. Trong
cuộc đấu tranh khi quyết liệt, khi âm thầm của con người với hoàn cảnh và với
chính bản thân mình, nhân vật của Nam Cao vẫn không chịu khuất phục, vẫn
cố vươn lên một cuộc sống nhân bản để làm người.
Hà Minh Đức đề cập đến Tầm quan trọng của hoàn cảnh trong tác
phẩm của Nam Cao và đi đến kết luận : Hoàn cảnh trong tác phẩm Nam Cao
trước hết là hoàn cảnh sống khắc nghiệt tạo thành một áp lực thường xuyên
đối với nhân vật, sức ép của hoàn cảnh đã đẩy cho nhân vật đến bước đường
cùng. Điều đáng quý là nhân vật của Nam Cao không ngã quỵ trước hoàn
cảnh, và vẫn mong ước sự đổi thay ( Trong Nam Cao đời văn và tác phẩm,
NXB Văn học, H., 1997). Nhân vật của Nam Cao dù bị hoàn cảnh xô đẩy đến
bước đường cùng, bị bần cùng hóa, lưu manh hóa nhưng thẳm sâu trong tâm
hồn của những người không còn được là người, những con người có bề ngoài
như những con vật vẫn còn nhân tính, vẫn còn những khát khao nhân bản. Đây
chính là một nét hấp dẫn của phong cách Nam Cao.
Trần Đăng Xuyền khi nghiên cứu Nam Cao nhận thấy một hướng đi riêng
trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Trong khi Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu
thuẫn, xung đột xã hội thì Nam Cao tập trung thể hiện xung đột trong thế giới
nội tâm của nhân vật. Đối với Nam Cao cái quan trọng hơn cả trong nhiệm
vụ phản ánh chân thực cuộc sống là cái chân thực của tư tưởng, của nội tâm
nhân vật. Cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện,
biến cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Từ đó , ông khẳng
định : Nam Cao đã lấy thế giới nội tâm của nhân vật làm đối tượng chính của
sự miêu tả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người

12


trong con người, miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong
tâm hồn nhân vật. Sức hấp dẫn của Nam Cao thể hiện ở những trang phân
tích tâm lý sắc sảo của ông. Đối với Nam Cao, phương pháp hiện thực có
chiều sâu cần đi vào phân tích tâm lý. Bởi vậy, trong sáng tác của Nam Cao
việc miêu tả ngoại hình, những cảnh vật thiên nhiên là yếu tố nhằm thể hiện
và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật. ( Nam Cao nhà văn hiện thực
xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, Tạp chí văn học, số 9, 1998)
Nguyễn Đăng Mạnh trong Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn(NXB GD, Hà Nội, 2002) đã viết : Đi vào thế giới nghệ thuật của
Nam Cao, ta lại nhận thấy hình ảnh ám ảnh day dứt là con người dù là người
trí thức cùng kiệt hay người nông dân cùng kiệt đều bị đặt vào tình huống áo cơm
ghì sát đất hay bị lăng nhục vì cái đói và miếng ăn. Bên cạnh đó là một hình
tượng người kể chuyện luôn suy tư trăn trở, luôn triết lý một cách chua chát về
cuộc đời. Từ những hình tượng phổ biến và đầy tâm huyết ấy, có thể nhận ra
tư tưởng nghệ thuật cơ bản của Nam Cao là nỗi đau đớn trước tình trạng con
người chẳng những tâm hồn mòn mỏi không sao cất cánh lên được mà thậm
chí không giữ nổi nhân tính nhân phẩm vì miếng cơm manh áo trong một xã
hội hết sức bất công vô lí. Hệ thống hình tượng ấy cũng thể hiện ở Nam Cao
một quan niệm nhân sinh đầy tinh thần nhân văn chủ nghĩa. Con người thật sự
xứng đáng với danh hiệu ấy, chẳng những phải được giải phóng khỏi những
trói buộc của cuộc sống áo cơm mà còn phải được phát triển tài năng đến tận
độ, phải có một tâm hồn giàu tình nhân loại, khát khao những lý tưởng cao cả
và một tư thế văn hoá đủ để suy tư về chân lý và có thể thưởng thức được vẻ
đẹp của thiên nhiên, của con người, của văn chương nghệ thuật.
Thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tui thấy rằng:
những bài viết đó mới chỉ nghiên cứu Thạch Lam Nam Cao với tư cách là
hai tác gia văn học độc lập, nét tương đồng về tư tưởng của Thạch Lam và
Nam Cao còn là một mảng đề tài mới lạ và hấp dẫn luôn chờ độc giả tìm hiểu

13



khám phá. Trên cơ sở tìm hiểu tài liệu của những người đi trước, tác giả khoá
luận mong muốn góp một tiếng nói nhằm khẳng định vị trí của Thạch Lam và
Nam Cao trong nền văn học trên cơ sở đi vào tìm hiểu đề tài Nét tương đồng
về tư tưởng của Thạch Lam và Nam Cao trong truyện ngắn trước Cách mạng.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận truyện ngắn Thạch Lam và Nam Cao đề tài này nhằm
đi sâu tìm ra nét tương đồng về tư tưởng giữa Thạch Lam và Nam Cao qua
những truyện ngắn của hai ông trước Cách mạng. Từ đó thấy được vị trí văn
học sử của hai nhà văn và những đóng góp quan trọng đối với quá trình hiện
đại hóa văn học dân tộc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra một số nhiệm vụ đối
với người viết:
- Nắm vững lí thuyết về tư tưởng. Tập hợp các kiến thức liên quan tới đề
tài.
- Hiểu rõ quan điểm về con người, về nghệ thuật, về người nghệ sĩ, thái độ
tình cảm của Thạch Lam và Nam Cao qua việc khảo sát, phân tích và
bình luận.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Thạch Lam sống và sáng tác vào trước Cách mạng. Còn sáng tác của
Nam Cao chia làm hai giai đoạn trước và sau Cách mạng. Nhưng để làm nổi
bật lên nét tương đồng về tư tưởng giữa hai nhà văn này, chúng tui đi sâu vào
các sáng tác trước Cách mạng. Chúng tui lấy các sáng tác ở thời kỳ trước Cách
mạng được tuyển chọn và in trong Tuyển tập Nam Cao, NXB Văn học, 2005
và Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2006 để khảo sát.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích văn học.
- Phương pháp so sánh,đối chiếu.


14


- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
7. Đóng góp của khoá luận
7.1. Về mặt lí luận:
Khóa luận chỉ ra những nét tương đồng về tư tưởng của Thạch Lam
Nam Cao trong truyện ngắn trước Cách mạng để thấy rõ tài năng, vị trí của hai
nhà văn trong lịch sử văn học dân tộc. Từ đó thấy được quy luật kế thừa và
sáng tạo trong tiến trình phát triển văn học nghệ thuật.
7.2. Về mặt thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy
Thạch Lam và Nam Cao ở trường phổ thông sau này.
8. Bố cục của khoá luận
A. Phần mở đầu ( 9 trang)
B. Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung ( 10 trang)
Chương 2: Những điểm tương đồng trong quan niệm nghệ thuật
của Thạch Lam và Nam Cao (17 trang)
Chương 3: Những điểm tương đồng trong thái độ, tình cảm của
Thạch Lam và Nam Cao (18 trang)
C. Phần kết luận (2 trang)
D. Thư mục tham khảo (2 trang).

15


Nội dung

Chương 1: Những vấn đề chung
1.1 Khái niệm tư tưởng và cách hiểu, sử dụng khái niệm trong khoá luận
1.1.1.Khái niệm tư tưởng
Theo Từ điển văn học (tập 2), Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội,
1984: Tư tưởng chủ đề là cách nhận thức, đánh giá, giải quyết của nhà văn
đối với chủ đề đặt ra trong tác phẩm.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục,
1994): Tư tưởng là quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện
thực khách quan và đối với xã hội.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( Lê Bá Hán chủ biên, nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2000): Tư tưởng tác phẩm văn học là nhận thức, lí giải
và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn học,
cũng như những vấn đề nhân sinh đặt ra ở trong đó.
Theo Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nguyễn Đăng
Mạnh quan niệm: Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn là một hình thái ý thức
đặc thù của người nghệ sĩ : nhận thức bằng toàn bộ con người tinh thần với
tất cả nội dung phong phú và tính tổng thể toàn vẹn của nó... Tư tưởng nghệ

16


thuật phải là riêng của mỗi nhà văn. Nó là chỗ phân biệt cơ bản giữa nhà văn
này với nhà văn khác.
Cùng với đề tài, chủ đề, tư tưởng là một trong những khía cạnh cơ bản
của nội dung tác phẩm. Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định : Tác phẩm viết
về cái gì? khái niệm chủ đề giải đáp câu hỏi : Vấn đề cơ bản của tác phẩm là
gì? thì tư tưởng giúp ta hiểu quan niệm, tình cảm, thái độ của tác giả trong tác
phẩm ra sao. Tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm. Tư tưởng
trong tác phẩm không trừu tượng mà được biểu hiện qua hình tượng nghệ
thuật. Tư tưởng tạo nên phong cách , tính đa dạng trong sáng tác văn chương

và mang dấu ấn riêng của từng nghệ sĩ.

1.1.2.Cách hiểu và sử dụng khái niệm tư tưởng
Người ta thường hiểu tư tưởng là phán đoán khái quát về hiện thực.
Trong phán đoán đó bao giờ cũng chứa đựng một quan hệ có tính quy luật
giữa các hiện tượng, sự vật của đời sống. Chẳng hạn nếu nói con người thì
tuy khái niệm đó cũng khái quát nhưng chưa bao hàm tư tưởng. Nhưng nếu
nói người với người là bạn, người ta là hoa đất... thì trước mắt ta đó là
những tư tưởng. Lênin nói: Tư tưởng - đó là nhận thức và khát vọng (mong
muốn) (của con người). Tư tưởng thể hiện sự nhận thức và phán đoán về cuộc
sống của nhà văn thông qua thế giới quan, sự lĩnh hội và tái hiện cuộc sống
trong tác phẩm của mình. Tư tưởng bao hàm cả thái độ, cả nhiệt tình khẳng
định, phủ định và ý thức chủ thể của con người trước thực tại. Nguyễn Đăng
Mạnh trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn đã viết :
Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn là một hình thái nhận thức đặc thù của
người nghệ sĩ : nhận thức bằng toàn bộ con người tinh thần với tất cả nội
dung phong phú và tính tổng thể toàn vẹn của nó. Tư tưởng là thế giới tinh
thần do tác giả tạo nên, tức là bao hàm cả những quan niệm, những suy nghĩ

17


và thái độ, tình cảm của tác giả được thể hiện thông qua tác phẩm - đứa con
tinh thần mà người nghệ sĩ sáng tạo nên.
Trong khóa luận này, chúng tui sử dụng khái niệm tư tưởng của Nguyễn
Đăng Mạnh làm cơ sở để tìm hiểu nét tương đồng về tư tưởng của Thạch Lam
và Nam Cao trong truyện ngắn trước Cách mạng.
1.2.Vai trò ý nghĩa của việc tìm hiểu tư tưởng của nhà văn trong quá
trình nghiên cứu văn học
Tư tưởng có vai trò quan trọng đối với toàn bộ tác phẩm. Nói như

Kơrôlencô: Tư tưởng chính là linh hồn của tác phẩm. Tư tưởng là sự kết tinh
của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời. Tư tưởng thấm nhuần trong tác
phẩm như máu chảy trong huyết quản thấm đến từng tế bào cơ thể. Nam cao
nói lên một cách gián tiếp: Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tát cả
các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải
chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần
người hơn (Đời thừa).
Như vậy, tư tưởng có tác dụng chỉ đạo trong sáng tác. Nó chi phối mọi
hoạt động cũng như mối liên hệ của các nhân vật. Nó quyết định việc nhà văn
lựa chọn hình thức thể hiện. Nó giúp nhà văn định hướng đề tài, phát hiện chủ
đề, lựa chọn cốt truyện hay tứ thơ. Tác giả văn học nhà văn- là người sáng
tạo nên những tác phẩm văn học. Căn cứ vào chất lượng tư tưởng- nghệ thuật
của các tác phẩm, người ta đánh giá tầm cỡ và vị trí của tác giả ấy.
Nhận ra tư tưởng là nhận ra chìa khoá để đi vào thế giới tinh thần do tác
giả tạo nên. Nắm được tư tưởng sáng tạo chủ đạo toát lên từ toàn bộ tác phẩm
của nhà văn ta hiểu vì sao tác giả lại chọn đề tài , chọn nhân vật, chọn chi tiết
này hay chi tiết khác. Có thể nói vấn đề Đôi mắt là vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa hiện thực Nam Cao : trong xã hội, Nam Cao đi tìm nhân phẩm và tình
thương yêu chân thật ở những người lao động cùng kiệt khổ bị giày xéo, bị khinh

18


bỉ với điều tâm niệm Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không
cố mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ
ổi...Toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những
người đáng thương; không bao giờ ta thương.... Nhà văn đặt ra vấn đề đôi
mắt, cài nhìn đúng đắn về con người. Với tư tưởng sáng tạo chủ đạo như vậy,
Nam Cao hướng ngòi bút của mình vào đề tài người nông dân, những con

người lao động cùng kiệt khổ bị đẩy vào cảnh bần cùng hoá, lưu manh hoá. Nhà
văn lách sâu ngòi bút vào thế giới tâm hồn của họ để phát hiện, khơi gợi và
khẳng định những vẻ đẹp, bản chất tốt đẹp ẩn giấu trong một hình thức khiêm
nhường, gàn dở, méo mó, dị biệt.
Đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng của nhà văn sẽ đem đến cách đánh giá đúng,
cái nhìn đúng về tác giả và toàn bộ sự nghiệp sáng tác của họ với tư cách là
đứa con tinh thần do tác giả sáng tạo ra. Từ sự hiểu đúng và sâu sắc tư tưởng
của nhà văn thể hiện qua hình tượng nhân vật góp phần khẳng định vị thế của
nhà văn đó trong lịch sử văn học, lịch sử xã hội.
1.3. Những yếu tố tác động tới tư tưởng của Thạch Lam và Nam Cao
Mỗi người sống trong một hoàn cảnh, một môi trường xã hội nhất định và
không thể không chịu sự tác động của môi trường hoàn cảnh ấy. Người ta
bao giờ cũng chịu rất sâu sa ảnh hưởng của hoàn cảnh và người ta trước hết
là được tạo nên để sống với hoàn cảnh (Thạch Lam). Vì vậy để hiểu về tư
tưởng của Thạch Lam và Nam Cao trước hết chúng ta phải biết được hoàn
cảnh xã hội.
1.3.1.Hoàn cảnh xã hội
Xã hội Việt Nam trước Cách mạng là một xã hội thực dân nửa phong
kiến, kinh tế lạc hậu sản xuất trì trệ, xã hội rối ren, điên đảo, đời sống của mọi
tầng lớp nhân dân vô cùng cực khổ. Các cuộc khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ, dai
dẳng và quyết liệt, đặc biệt giai đoạn 1930- 1945. Thực dân Pháp đã sử dụng

19


mọi thủ đoạn dã man để đối phó với tình hình. Chúng thi hành chính sách đàn
áp về quân sự, chuyên chế về chính trị, bóc lột về kinh tế, đầu độc về văn hoá.
Về quân sự và chính trị, chúng thực hiện các cuộc khủng bố trắng, thực
thi các cuộc bắt bớ đàn áp, những vụ thảm sát đẫm máu để dìm những cuộc
khởi nghĩa của ta trong bể máu.

Đàn áp về quân sự, chuyên chế về chính trị nhằm bóc lột kinh tế với lợi
nhuận siêu ngạch cao. Chúng trắng trợn chiếm đoạt đất đai của nông dân để
lập đồn điền, cướp hầm mỏ để khai thác. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô
lý. Chính sách kinh tế độc quyền vơ vét của thực dân đã làm cho mọi tầng lớp
trong xã hội điêu đứng, đặc biệt người nông dân phải chịu một cổ hai tròng
bị đẩy vào cảnh khốn cùng, bị phá hoại đến cùng kiệt cả thể chất cũng như
tinh thần.
Về văn hoá, chúng thi hành chính sách kiểm duyệt và đàn áp sách báo
tiến bộ. Chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng mở nhà tù nhiều hơn
trường học. Chúng bắt học sinh các trường tư thục từ mười tám tuổi trở lên
phải đóng thuế thân để con em cùng kiệt không được đi học. Kết quả là trên 90%
nông dân bị mù chữ. Còn học sinh, sinh viên bị đầu độc bởi chủ nghĩa siêu
hình, chủ nghĩa chủ quan duy tâm, chủ nghĩa nguỵ biện, chủ nghĩa hoài nghi.
Thực dân Pháp lợi dụng các phong trào văn hóa có xu hướng cải lương tư
sản ( phong trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung, hội ánh sáng) và những hoạt động
tôn giáo nhằm ru ngủ và đánh lạc hướng thanh niên. Chúng mở hàng trăm
tiệm nhảy, nhà săm, tiệm hút đẩy thanh niên vào con đường trụy lạc; chúng
hướng thanh niên vào chủ nghĩa chủng tộc sôvanh, chủ nghĩa phục cổ, chủ
nghĩa bảo thủ, duy tâm, khắc kỷ gàn
Năm 1940, phát xít Nhật đã chen chân lên Đông Dương, thực dân Pháp
càng bóp nghẹt đất nước Việt Nam. Chiến tranh trở nên ác liệt, xã hội Việt
Nam lay chuyển. Cả thực dân Pháp và phát xít Nhật đều đẩy mạnh bóc lột,
hùa nhau vơ vét tận cùng tài nguyên của Việt Nam để phục vụ cho chiến

20


tranh. Đời sống nhân dân càng khốn cùng. Nạn đói diễn ra hoành hành. Cuối
năm 1944 đầu 1945 hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
Đời sống chính trị trở nên ngột ngạt. Trong văn học công khai bọn

thống trị phát xít chỉ còn tồn tại những tiểu thuyết lãng mạn cuối mùa đưa ra
những chàng, nàng trưởng giả chen lẫn với những người hùng trắng trợn,
côn đồ, ca tụng quan lại, ước ao trật tự đạo lí xã hội phong kiến trở lại. Chịu
ảnh hưởng của tư tưởng phát xít, một số nhà văn quay ra tuyền truyền cho lí
thuyết sức mạnh và con người siêu nhân của Nietzsche, ca ngợi tinh thần võ sĩ
đạo Nhật Bản, lí tưởng hoá những anh hùng cạo trọc đầu, đi bốt, buôn chợ
đen! (Thanh Đức của Khái Hưng, tui thầu khoán, Trường đời của Lê Văn
Trương).
Cuối thế kỉ XIX, chế độ phong kiến ngày càng trở nên thối nát, không
những không đánh đuổi Pháp mà còn dâng nước ta cho Pháp, cấu kết với Pháp
để đàn áp, bóc lột dân ta hết sức dã man, thậm tệ. Xã hội Tây Tàu lẫn lộn,
đồng tiền có sức mạnh vạn năng khuấy đảo xã hội, đảo lộn mọi luân thường
đạo lý. Chính cái xã hội tàn nhẫn, vô nhân đạo ấy đã chà đạp lên quyền sống
của con người, làm cho mọi con người lương thiện phải chịu cuộc sống cơ
cực, bế tắc không lối thoát.
Cuộc sống ấy đã tác động sâu sắc tới lớp văn nghệ sĩ. Họ vừa mang tư
tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa và tâm trạng phẫn uất mãnh liệt của nhà
văn cùng kiệt suốt đời bị điêu đứng bởi đồng tiền như Vũ Trọng Phụng. Đồng
thời tác phẩm của họ còn thể hiện một cách chân thực, cụ thể hiện thực đời
sống lúc bấy giờ.
Thạch Lam Nam Cao bước vào nghề khi xã hội thực dân phong kiến
thối nát ngột ngạt, đen tối cho nên hai ông cũng không tránh khỏi vòng xoáy
của cuộc đời. Xã hội đã có tác động lớn đến tư tưởng của nhà văn.
1.3.2. Hoàn cảnh riêng

21


Bên cạnh hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh riêng cũng có ảnh hưởng đến sự
hình thành tài năng sáng tạo, sự hình thành thế giới quan của người nghệ sĩ.

Bởi vậy, tìm hiểu tư tưởng của Thạch Lam và Nam Cao chúng ta cũng cần
phải biết được hoàn cảnh riêng của từng nhà văn.
* Hoàn cảnh riêng của Thạch Lam:
Thạch Lam sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Cha
của Thạch Lam là Nguyễn Tường Nhu, quê ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ông nội Thạch Lam, nguyên là tri huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Trong thời
gian trị nhậm, có một đồng sự là ông Lê Quang Thuật (dân trong làng thường
gọi là Quản Thuật). Ông Quản Thuật có một người con gái đầu là bà Lê Thị
Sâm. Hai ông Huyện Giám và Quản Thuật đã thông gia với nhau. Ông Nhu và
bà Sâm lấy nhau sinh ra anh em Thạch Lam. Sinh ra ở Hà Nội nhưng cả thời
thơ ấu và tuổi trẻ Thạch Lam sống ở phố huyện Cẩm Giàng. Xóm chợ gần nhà
Thạch Lam toàn là người làm ruộng quê ở Hà Nam, Phủ Lý vì bị lụt lội
không đủ sống nên đưa nhau đến đây. Đa số gia đình làm nghề đi kéo xe hoặc
làm mướn, và còn nổi tiếng cùng kiệt vì quả đông con.
Năm Thạch Lam bảy tuổi thì cha mất. Sau khi cha mất , cảnh nhà khó
khăn. Mẹ Thạch Lam phải tần tảo buôn bán để nuôi các con ăn học. Thạch
Lam và chị Thế ở nhà trông coi ngôi hàng tạp hóa cho mẹ. Bởi vậy, tuy xuất
thân từ gia đình viên chức gốc quan lại, nhưng do một thời gian dài gia đình
sống dựa vào lao động của người mẹ, đã tạo nên cách nhìn và lòng nhân ái của
Thạch Lam.
Sau khi lập gia đình, Thạch Lam vẫn cùng kiệt nhất. Hai vợ chồng sống ở
ngôi nhà tranh ba gian ở bên Hồ Tây thuộc vùng ngoại ô Yên Phụ. Chính vì
cuộc sống cùng kiệt nàn, gần gũi với người lao động nên Thạch Lam hiểu và
thông cảm với cuộc sống bấp bênh gần như không có tương lai của họ.
Trong cuộc sống, Thạch Lam là con người khiêm nhường, bình dị. Thạch
Lam không phải là con người hành động, bởi thế nhân vật của ông cũng là

22


những người thiên về suy nghĩ, cảm xúc nội tâm. Thạch Lam là người thông
minh nhất nhà và cũng lãng mạn nhất nhà. Là một nghệ sĩ có tâm hồn lãng
mạn, Thạch Lam yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Thạch Lam là người chắt
chiu cái đẹp và sáng tác của ông chính là sự tìm kiếm cái đẹp đã bị đánh
mất. Cái đẹp trong văn Thạch Lam không rời xa hiện thực mà bắt rễ từ chính
mảnh đất hiện thực. Bởi vậy trong tác phẩm của mình, Thạch Lam đã thể hiện
một quan niệm văn chương hết sức tiến bộ: Văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được trong sạch và phong phú
hơn. Những tác phẩm của Thạch Lam thực sự đồng cảm chia sẻ với cuộc
sống của những người lao động cùng kiệt khổ. Điều đó giải thích vì sao trải qua
bao thử thách khắc nghiệt của thời gian, tác phẩm của Thạch Lam vẫn giữ
nguyên giá trị và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc say mê, trân trọng.
* Hoàn cảnh riêng của Nam Cao:
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917
trong một gia đình trung nông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam
Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam).Cha Nam Cao là Trần Hữu Huệ , con của cụ Trần Hữu Chung xuất
thân từ nhà nho cùng kiệt nối đời làm thuốc và dạy học. Mẹ của Nam Cao là bà
Trần Thị Minh. Bà là người hiền thục, nhân hậu, thường xuyên giúp đỡ người
khó khăn.
Sau khi lấy bà Minh, bố mẹ Nam Cao được bà ngoại giao cho sáu sào đất
và mấy cái khung dệt. Ông Huệ bà Minh sinh được tám người con, năm trai,
ba gái. Nhà văn Nam Cao là con trưởng. Mặc dù cha mẹ tần tảo sớm hôm
nhưng vì nhà đông miệng ăn, các con đau yếu, cảnh nhà cũng sa sút dần.
Trong tám anh em, Nam Cao là người duy nhất được đi học, còn các em
không một ai được bước chân đến trường, phải ở nhà gồng thuê gánh mướn để

23

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
G Vài nét về văn học so sánh và ứng dụng vào tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt giữa truyện câ Tài liệu chưa phân loại 0
N Những nét văn hóa tương đồng và dị biệt qua một số sản phẩm gốm nổi tiếng của Hàn Quốc và Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 2
A Tìm hiểu những nét tương đồng và dị biệt trong các món ăn đặc trưng ngày Tết của dân tộc chủ thể các quốc gia Đông Nam Á Tài liệu chưa phân loại 2
W Những nét tương phản trong văn hóa kinh doanh của Đức và Trung Quốc Tài liệu chưa phân loại 2
D Kinh kịch nét văn hoá truyền thống của dân tộc trung hoa Văn hóa, Xã hội 0
D Những nét đặc trưng trong văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản Luận văn Kinh tế 0
K Những nét đặc trưng trong văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản Luận văn Kinh tế 3
N Tìm hiểu việc giữ gìn nét văn hóa dân tộc ở Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Kiến trúc, xây dựng 0
T Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – Vài nét về thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 0
H Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam-Vài nét về thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top