Download Đề tài Kiểm chứng tính hữu hiệu của thị trường cổ phiếu TP Hồ Chí Minh dưới dạng yếu của giả thuyết thị trường hữu hiệu

Download Đề tài Kiểm chứng tính hữu hiệu của thị trường cổ phiếu TP Hồ Chí Minh dưới dạng yếu của giả thuyết thị trường hữu hiệu miễn phí





Liên quan đến dạng yếu này, các kết luận cũng cho rằng, giá cảhay lợi tức chứng
khoán trong tương lai có thểphản ánh những thông tin có liên quan trong quá khứ. Kết
luận này được các nhà phân tích kỹthuật hưởng ứng. Fama (1991) mởrộng thêm khái
niệm vềdạng thông tin yếu của thịtrường hữu hiệu, bằng cách đưa các yếu tốkếtoán
và kinh tếvĩmô vào phân tích.
Tuy nhiên, quan điểm vềtính hữu hiệu của thịtrường vẫn không đồng nhất. Mathur và
Subrahmanyam (1990) tiếp cận vấn đềbằng phương pháp VAR và cho rằng thịtrường
chứng khoán Đan Mạch, Phần Lan và Thụy Điển không hữu hiệu. Cũng dùng phương
pháp này, nhưng Eun và Shim (1989) kết luận thịtrường Hoa Kỳ, Anh, Đức, Úc,
Canada, Pháp, Thụy Sĩ, Hồng Kông là hữu hiệu. CảScholhammer và Sand (1987) và
Khoury (1987) cùng kết luận các thịtrường này là hữu hiệu.



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

Tạp chí Kinh tế Đối Ngoại, Số 26, tháng 10/2007
Kiểm chứng tính hữu hiệu của thị trường cổ phiếu TP. Hồ Chí
Minh dưới dạng yếu của giả thuyết thị trường hữu hiệu
ThS Võ Văn Lai
ThS Lê Thị Thu Hương
Tính hữu hiệu của thị trường cổ phiếu là vấn đề quan trọng đối với các nhà đầu tư vì
nó là cơ sở cho việc phân tích và ra quyết định đầu tư. Bài viết này sử dụng dữ liệu là
chỉ số VN-Index từ 02/1/2007 đến 15/5/2007 và giá cổ phiếu của 10 công ty niêm yết
để kiểm tra tính hữu hiệu của thị trường cổ phiếu TP. Hồ Chí Minh, dưới góc độ dạng
yếu của giả thuyết thị trường hữu hiệu. Kết luận rút ra ở đây là thị trường cổ phiếu
TP. Hồ Chí Minh không phải là thị trường vốn hữu hiệu, nếu phân tích dưới dạng yếu
của giả thuyết này.
Đặt vấn đề
Thị trường vốn hữu hiệu là một trong những giả thuyết cơ bản của kinh tế học tài
chính. Giả thuyết này cho rằng “giá cả chứng khoán điều chỉnh nhanh chóng khi có
thông tin mới xuất hiện trên thị trường, và do đó, giá cả hiện hành của chứng
khoán sẽ phản ánh lại mọi thông tin liên quan đến chứng khoán này”1. Trong vòng
40 năm trở lại đây, rất nhiều nhà kinh tế tài chính học đã nghiên cứu liệu giả thuyết
này có đúng không. Việc phát triển các nghiên cứu này là điều rất quan trọng vì nó là
nhân tố quyết định việc định giá và đầu tư của các nhà đầu tư trong thực tế. Vì xem xét
tác động của thông tin đến giá cả chứng khoán, nên giả thuyết thị trường hữu hiệu là
cơ sở trong việc phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật mà hầu hết các nhà đầu tư sử
dụng hàng ngày trên thị trường.
Lý thuyết thị trường vốn hữu hiệu được phát triển trên cơ sở 3 giả định cơ bản. Thứ
nhất, có một số lượng khá lớn người mua bán chứng khoán trên thị trường. Thứ hai,
thông tin mới liên quan đến chứng khoán có trên thị trường là quá trình ngẫu nhiên.
Thứ ba, các nhà đầu tư cạnh tranh với nhau trên thị trường bằng cách điều chỉnh giá cả
chứng khoán một cách nhanh chóng để phản ánh lại các thông tin mới vừa được công
bố.
1 Xem Frank K. Reilly và Keith C. Brown, (1997), “Investment Analysis and Portfolio Management”, Fifth
edition, Chương 7, trang 208
Tạp chí Kinh tế Đối Ngoại, Số 26, tháng 10/2007
Bởi vì tất cả các nhà đầu tư tìm kiếm cùng một lượng thông tin cho cùng một mục
đích, nên giá chứng khoán sẽ phản ánh lại tất cả các thông tin này. Một điều quan
trọng của giả thuyết này là thông tin liên quan đến việc định giá của các khoản vay,
chứng khoán, và các tài sản tài chính khác có sẵn cho tất cả người mua và người
bán với những mức giá có thể thỏa thuận. Như vậy, tất cả thông tin trên thị trường
được dùng để định giá các tài sản tài chính, và do đó, không có một thông tin nào là
không cần thiết hay sử dụng sai. Do đó, không một nhà đầu tư nào với cùng một lượng
thông tin có thể kiếm được lợi nhuận nhiều hơn mức lợi nhuận kỳ vọng chung của thị
trường. Nếu giả thuyết thị trường vốn hữu hiệu đúng, bất cứ một khoản lợi nhuận nào
vượt quá mức lợi nhuận kỳ vọng sẽ nhanh chóng bị loại bỏ vì các nhà đầu tư sẽ nhanh
chóng cấu trúc lại danh mục đầu tư của họ. Nếu họ nghĩ rằng, một số chứng khoán của
họ bị định thấp hơn hay cao hơn giá thị trường, thì họ nhanh chóng mua hay bán đi các
chứng khoán này. Khi có một thông tin mới xuất hiện, giá cả chứng khoán lập tức thay
đổi. Điều này làm cho giá cả chứng khoán trên thị trường trở thành một yếu tố ngẫu
nhiên: nếu thông tin về chứng khoán thay đổi, giá cả sẽ lập tức thay đổi. Vì là biến
ngẫu nhiên, nên nhiều nhà đầu tư thành công trong quá khứ không thể đảm bảo rằng
họ sẽ thành công trong tương lai. Giả thuyết thị trường vốn hữu hiệu cũng cho rằng,
giá cả trên thị trường chỉ thay đổi khi những thông tin được công bố là mới. Đây là
những ứng dụng quan trọng của giả thuyết này vào thực tiễn.
Lịch sử nghiên cứu
Giả thuyết thị trường vốn hữu hiệu được phát triển vào những năm 60 của thế kỷ
trước. Năm 1970, Eugene F. Fama, một nhà kinh tế học tài chính nổi tiếng của đại học
Chicago, Hoa Kỳ, chia giả thuyết này thành 3 dạng: dạng yếu (weak form), dạng trung
(semi-strong form) và dạng mạnh (strong form). Sự phân chia này đã trở thành kinh
điển khi nghiên cứu về lý thuyết thị trường hữu hiệu.
Dạng yếu của giả thuyết thị trường vốn hữu hiệu cho rằng, giá cả hiện tại của
chứng khoán sẽ phản ánh tất cả các thông tin quá khứ liên quan đến chứng khoán
này. Thông tin quá khứ liên quan đến chứng khoán bao gồm giá cả, lợi tức, số lượng
giao dịch, và các thông tin liên quan khác. Dạng trung của giả thuyết thị trường vốn
phát biểu rằng, giá cả chứng khoán điều chỉnh nhanh chóng trước các thông tin
được công bố công khai (pubic information). Dạng trung bao gồm cả dạng yếu vì các
thông tin trong quá khứ cũng là các thông tin được công bố công khai. Dạng mạnh
của giả thuyết thị trường vốn hữu hiệu cho rằng giá cả chứng khoán phản ánh lại
tất cả các thông tin công bố công khai và các thông tin riêng biệt của từng cá nhân
(private information).
Vì bài viết này nghiên cứu thị trường vốn ở dạng yếu, nên việc xem xét lịch sử nghiên
cứu cũng chỉ tập trung dạng yếu của thị trường hữu hiệu.
Tạp chí Kinh tế Đối Ngoại, Số 26, tháng 10/2007
Theo Frank K. Reilly and Keith C. Brown (1997), các nghiên cứu trước đây về dạng
yếu của thị trường hữu hiệu có thể được chia thành 2 nhánh. Nhánh thứ nhất liên quan
đến việc vận dụng các phương pháp thống kê trong việc phân tích lợi tức. Nhánh này
gồm có việc kiểm tra các tự tương quan (autocorrelation) và quá trình thay đổi giá
(runs-tests) đối với các biến lợi tức độc lập. Nhánh thứ hai liên quan đến việc so sánh
giữa rủi ro và lợi tức dựa trên các quy luật giao dịch của thị trường2. Nhánh này có liên
quan chặt chẽ với việc phân tích kỹ thuật.
Eugene F. Fama and James MacBeth (1973) đã kiểm chứng mối liên hệ giữa lợi tức
ngày thứ t với lợi tức các ngày t-1, t-2, hay t-3. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng kiểm
tra tính tương quan của lợi tức chứng khoán trong thời gian ngắn, bao gồm 1, 4, 9 và
16 ngày. Các công trình nghiên cứu này cho biết các mức lợi tức không liên quan mật
thiết với nhau, và hệ số tương quan nằm trong khoảng +0,10 đến -0,10 không có ý
nghĩa thống kê. Robert L. Hagerman và Richard D. Richmond (1973) nghiên cứu
chứng khoán giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC) và cũng ủng hộ cho thị
trường vốn hữu hiệu. Nhiều nghiên cứu gần đây (Jennifer Conrad và Gantam Kaul
(1988)) cũng cho biết rằng tự tương quan sẽ lớn hơn ở những danh mục chứng khoán
của các công ty nhỏ.
Liên quan đến dạng yếu này, các kết luận cũng cho rằng, giá cả hay lợi tức chứng
khoán trong tương lai có thể phản ánh những thông tin có liên quan trong quá khứ. Kết
luận này được các nhà phân tích kỹ thuật hưởng ứng. Fama (1991) mở rộng thêm khái
niệm về dạng thông tin yếu của thị trường hữu hiệu, bằng cách đưa các yếu tố kế toán...
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
S Lựa chọn và kiểm chứng một chế độ điện phân đã được dùng trong công nghiệp, khảo sát tính chất điện Luận văn Kinh tế 0
D Xây dựng phần mở rộng kiểm chứng thuộc tính logic thời gian tuyến tính cho Java Pathfinder Công nghệ thông tin 0
Y Một số phương pháp kiểm chứng tính đúng đắn của hệ thời gian thực bằng thuật toán Công nghệ thông tin 0
M Kiểm chứng tính đúng đắn hệ thống tính toán của chương trình bằng kiểm duyệt mô hình Công nghệ thông tin 0
T Kiểm chứng các tính chất thời gian thực cho hệ thống đồng thời bằng RT-SPIN Công nghệ thông tin 0
D 3 năm hành nghề kiểm toán được tính từ khi cấp chứng chỉ hay lúc nào? Hỏi đáp Thuế & Kế toán 1
K Tìm hiểu về tính đầy đủ và tính tin cậy của Bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán tài chính. Tài liệu chưa phân loại 0
H Kiểm định tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 2
D Bằng chứng kiểm toán và các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC Kế toán & Kiểm toán 0
D Rèn luyện kĩ năng dự đoán và kiểm chứng cho học sinh trong dạy học Hình học không gian lớp 11 nâng c Luận văn Sư phạm 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top