Download miễn phí Đề tài Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuậnt du lịch tại một số điểm trong khu vực Sơn Tây – Ba Vì





Lời mở đầu 2

1. Lý luận chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 4

1.1. Khái niệm và vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch . 4

1.1.1. Khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch . . 4

1.1.2. Vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch . 5

1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng . 5

1.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuât . 6

2. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây–Ba Vì . 9

2.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật 9

2.1.1. Cơ sở hạ tầng . 9

2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật . . 12

2.2. Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuậnt du lịch tại một số điểm trong khu vực Sơn Tây – Ba Vì . 14

2.2.1. Vườn quốc gia Ba Vì . 15

2.2.2. Điểm du lịch Ao Vua 16

2.2.3. Điểm du lịch Hồ Suối Hai 17

2.2.4. Điểm du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên . 19

2.2.5. Điểm du lịch Hồ Đồng Mô - Ngải Sơn . 20

2.3. Đánh giá chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì 22

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì . 24

3.1. Cơ sở hạ tầng 24

3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật . 25

3.3. Một số kiến nghị đối với ngành du lịch Sơn Tây – Ba Vì và các ban ngành có liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch của khu vực. . 28

Kết luận . 29

Tài liệu tham khảo . 31

 

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


nh, giặt là,...
2. Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở sơn tây – ba vì trong thời gian qua
2.1.Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật.
2.1.1.Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển du lịch, nó đảm bảo việc đi lại và các dịch vụ cần thiết cho khách du lịch.
Giao thông vận tải.
Hoạt động du lịch gắn liền với việc di chuyển của con người nên giao thông vận tải là vấn đề then chốt. Đối với du lịch, mạng lưới và phương tiện giao thông thuận tiện có ý nghĩa rất quan trọng, khách du lịch sẽ tận dụng được thời gian để vui chơi, giải trí. Nếu giao thông không thuận tiện, con người phải mất nhiều thời gian cho việc di chuyển và phát triển du lịch bị hạn chế.
Hà Tây nói chung và Sơn Tây - Ba Vì nói riêng có vị trí địa lý rất thuận tiện, là nút giao lưu của nhiều tuyến đường quan trọng: đường ngược Việt Bắc, Tây Bắc, đường vào Thanh, Nghệ; đường xuôi đồng bằng ven biển và là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, của xứ Đoài thuộc kinh kỳ Thăng Long xưa, cho nên ở đây sớm hình thành mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh.
Đường bộ. Mạng lưới giao thông vận tải đường bộ của Sơn Tây - Ba Vì khá phát triển, nhưng do thời gian sử dụng quá lâu nên nhiều trục đường đang xuống cấp, nhất là các tuyến thuộc cấp tỉnh, huyện, xã quản lý.
Từ Sơn Tây - Ba Vì có các trục đường chính sau:
- Quốc lộ 21A (46,00km) từ thị xã Sơn Tây đến Miếu Môn.
- Quốc lộ 32 (49,00km) từ Nhổn đến bến phà Trung Hà.
- Quốc lộ cao tốc Láng- Hoà Lạc,nối Hà Nội với quốc lộ 21A.
- Tỉnh lộ 87A (20,575km) từ viện 105 (thị xã Sơn Tây) đi Bất Bạt.
- Tỉnh lộ 89 (13,0km) từ Đá Chông đi phố Chẹ.
- Tỉnh lộ 88 (23,0km) từ Vị Thuỷ (thị xã Sơn Tây) đi Bất Bạt.
- Tỉnh lộ 12 (18,0km) từ thị xã Sơn Tây lên Cốt 600 núi Ba Vì.
- Tỉnh lộ 82 (10,2km) từ Sơn Đông (Quốc lộ 21) đi thị xã Sơn Tây.
Ngoài ra còn các tuyến đường liên xã, thôn, liên kết với các trục đường chính nối các điểm du lịch của vùng tạo thành tuyến du lịch trong khu vực.
Nếu phân loại đường theo chất lượng khai thác thì loại đường xuống cấp, xấu và rất xấu chiếm 65%, trung bình 30% và tốt chỉ đạt 7%, điều này là yếu tố cản trở cho phát triển du lịch ở Hà Tây nói chung và Sơn Tây - Ba Vì nói riêng do vậy cần được quan tâm nâng cấp cải tạo lại chất lượng đường.
Đường sông. Các tuyến đường sông qua khu vực Sơn Tây - Ba Vì tới các điểm du lịch chưa phát triển nên ít được sử dụng. Tuy nhiên trong tương lai có thể khai thác phục vụ cho du lịch, gồm các tuyến:
- Tuyến sông Đà đi qua phía Tây Bắc khu vực Sơn Tây - Ba Vì từ thị xã Hoà Bình đến ngã ba Trung Hà (tính bên hữu ngạn) dài 32km, (toàn tuyến từ Lai Châu đến Trung Hà 157km).
- Tuyến sông Hồng đi qua phía Đông khu vực Sơn Tây - Ba Vì, với cảng Sơn Tây có thể đảm bảo cho sà lan 200 tấn đến 1000 tấn ra vào và các bến dân sinh thuộc huyện Ba Vì.
- Tuyến nội tỉnh theo sông Tích chảy từ núi Ba Vì qua huyện Ba Vì, thị xã Sơn Tây, huyện Thạch Thất, Chương Mỹ và đổ vào sông Đáy ở Ba Thá, dài 115km. Tuyến này không có khả năng khai thác vận tải thuỷ do có nhiều đá ngầm, bãi cạn, tuy nhiên có thể khai thác phục vụ du lịch bằng các xuồng, ca nô cỡ nhỏ.
Đường sắt. Trong vùng không có đường sắt chạy qua.
Đường hàng không. Trong vùng có hai sân bay phục vụ quân sự, không phục vụ du lịch.
Phương tiện giao thông. Do đặc điểm của mạng lưới giao thông hiện nay nên phương tiện được sử dụng nhiều nhất tới các điểm du lịch trong khu vực vẫn là ô tô các loại. Toàn tỉnh Hà Tây có tổng số ghế phục vụ vận chuyển khách là 8735 ghế trong đó quốc doanh chiếm tỉ lệ 74% và tư nhân 26%, gồm 155 chiếc xe Buýt có từ 20 đến 40 ghế và các loại khác có 303 chiếc có từ 8 đến 18 ghế. Tuy nhiên các xe đến các điểm du lịch chủ yếu là xe của khách từ các tỉnh phụ cận.
Các loại phương tiện cá nhân cũng được sử dụng nhiều cho du lịch là xe mô tô, xe gắn máy.
Ngoài ra, phương tiện vận chuyển khách trên sông của toàn tỉnh Hà Tây có khoảng 500 ghế.
Thông tin liên lạc.
Có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch, nó đảm bảo sự giao lưu cho khách và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp du lịch. Trong thời gian qua, Sơn Tây - Ba Vì đã có rất nhiều cố gắng nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, đặc biệt là thị xã Sơn Tây. Nhưng nhìn chung, mạng lưới thông tin trong vùng chưa đáp ứng được nhu cầu về thông tin liên lạc hiện đại, chủ yếu là các tổng đài nhỏ, dung lượng thấp, thiết bị cũ chưa hoà nhập với mạng lưới thông tin Quốc gia và Quốc tế.
Mạng lưới điện.
Nhìn chung mạng lưới điện ở Sơn Tây - Ba Vì đáp ứng tương đối tốt nhu cầu về điện cho sản xuất, sinh hoạt và du lịch
Trạm điện 110/35/10kv -2+16, MVA Sơn Tây là nguồn điện cho toàn khu vực. Trạm này đã cung cấp đầy đủ, hết công suất. Lưới điện phát triển dưới 3 cấp điện áp 35kv, 10kv và 6kv. Tại các điểm du lịch trong khu vực, khả năng cung cấp điện là tương đối tốt, nhưng bên cạnh đó tại một số thôn, bản khả năng cung cấp điện thấp do mạng lưới truyền tải điện chưa đủ khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng.
Khả năng cung cấp nước.
Chủ yếu dân cư và các điểm du lịch ở đây sử dụng trực tiếp hay xử lý tại chỗ nguồn nước mặt từ hồ, sông, suối. Riêng thị xã Sơn Tây có hệ thống cấp nước đô thị với công suất 10.000 m3/ngày đêm. Về trữ lượng nước ngầm thì không đáng kể. Nhìn chung, khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và du lịch tương đối đầy đủ, tuy nhiên cần quan tâm đến khả năng cung cấp nước vào mùa khô.
Các trạm thông tin liên lạc.
Tuy đã được đầu tư nhưng khả năng đáp ứng còn rất hạn chế do lượng máy điện thoại còn thấp và hệ thống thông tin chưa hoàn thiện. Các loại hình thông tin liên lạc hiện đại chưa có.
2.1.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thiết lập và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch. Do mức độ khai thác du lịch chưa cao nên tại các điểm du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì số lượng và chất lượng của các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn hạn chế.
Cơ sở lưu trú.
Tính đến đầu năm 2002 ở 11 điểm của Ba Vì đã có 171 buồng trong đó có 165 buồng khép kín, tổng diện tích buồng 3.600 m3, ngoài ra có 30 nhà sàn. ở Sơn Tây có 135 buồng khép kín và rất nhiều nhà sàn, nhà sàn kiểu camping,...
Bảng 1: cơ sở lưu trú tỉnh Hà Tây
Khách sạn
Số phòng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Đầu năm 2002
20
20
35
35
410
410
562
562
Nguồn :Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch.
Nhìn chung cơ sở lưu trú của vùng ngoài các nhà sàn và nhà nghỉ mới xây dựng có kiến trúc đẹp, phù hợp với cảnh quan, số còn lại hầu hết các phòng đều có chất lượng chưa cao do được xây dựng đã lâu, phòng cũ cải tạo lại. Các phòng nghỉ hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, chỉ có một số ít thuộc khu vực sân golf Đồng Mô nhưng các trang thiết bị còn thiếu và chưa đồng bộ.
Do tình trạng phòng nghỉ chỉ phục vụ được nhu cầu của khách nội địa, còn phục vụ khách quốc tế thì chưa đủ tiêu chuẩn về vệ sinh và trang thiết bị, nên dẫn đến tình trạng doanh thu từ việc thuê phòng chưa cao và chưa hấp dẫn được khách du lịch .Doanh thu từ lưu trú chỉ chiếm 24,2% tổng doanh thu du lịch của cả vùng.
Cơ sở phục vụ ăn uống.
ở hầu hết các điểm du lịch trong khu vực Sơn Tây - Ba Vì đều có các quầy bar và phòng ăn lớn có sức chứa khoảng 100 người mỗi phòng. ở vườn Quốc gia Ba Vì có một phòng sức chứa 100 người, hồ Suối Hai có 2 phòng ăn có thể chứa 200 người, hồ Đồng Mô - Ngải Sơn có nhiều phòng ăn tương đối sạch sẽ, bố trí đẹp,... Ngoài ra còn phục vụ ăn uống tại các nhà sàn có phong cảnh đẹp, thoáng mát.
Qua những đánh giá nhận xét của khách du lịch ở các điểm thì nhìn chung các món ăn được phục vụ là các món ăn mang hương vị núi rừng với nhiều món rau xanh hấp dẫn, giá phù hợp, thái độ phục vụ tốt. Tuy nhiên, các món ăn ở đây chưa được phong phú, trình độ chế biến chưa cao, chưa đảm bảo về chất lượng, các món đặc sản giá vẫn tương đối cao và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và đồ uống chưa được thực sự quan tâm. Các điểm du lịch chỉ chủ yếu phục vụ ăn uống cho khách đi theo đoàn, còn phần lớn khách lẻ tự trang bị đồ ăn nên doanh thu từ ăn uống chưa khai thác hết khả năng, còn tương đối khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 7,5% trong tổng doanh thu du lịch của cả khu vực.
Hội trường, phòng họp.
Ngoài cơ sở lưu trú và phục vụ ăn, uống thì việc cung cấp các hội trường, phòng họp cho các đoàn khách tổ chức các buổi nghiên cứu, hội thảo là rất cần thiết.
ở hầu hết các điểm du lịch đều có các phòng họp, hội thảo: ở khu vực Ba Vì có 6 hội trường phòng họp với 710 m2, ở khu hồ Đồng Mô đến nay đã có 700 m2 văn phòng và phòng họp... Nhìn chung các phòng hội thảo được bố trí đẹp, môi trường xung quanh thoáng đãng sạch sẽ như: Phòng hội thảo tại vườn Quốc gia Ba Vì được bố trí trên gác 2 của nhà sàn, khu Đồng Mô có 1 phòng họp được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị cần thiết,... Tuy nhiên nhìn chung, diện tích của phòng còn hạn chế và thiếu các trang thiết bị.
Khu vui chơi, giải trí.
Hiện nay các khu vui chơi, giải trí đang là vấn đề được các điểm du lịch ở Sơn Tây -...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D lý luận chung về gia đình – liên hệ với thực trạng gia đình ở việt nam hiện nay Văn hóa, Xã hội 0
D Lí luận về lạm phát kinh tế .Thực trạng giải quyết lạm phát của nước ta hiện nay Luận văn Kinh tế 0
H Những vấn đề lí luận về kinh tế đối ngoại, phân tích hiện trạng của vấn đề và đưa ra các giải pháp Luận văn Kinh tế 0
T Thực trạng về công tác kế toán NVL trong các doanh nghiệp hiện nay và một số ý kiến đề xuất Luận văn Kinh tế 0
A Thực trạng về chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Công nghệ thông tin 0
A Thực trạng về quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cân đối q Luận văn Kinh tế 0
T Thực trạng của việc thực hiện luật pháp chế độ chính sách về bảo hộ lao động tại các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng Luận văn Kinh tế 2
Y Thực trạng về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện n Luận văn Kinh tế 0
L Thực trạng về chất lượng dịch vụ 1 trong kinh doanh khách sạn ở Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 2
F Hiện trạng và giải pháp về hoạt động quan hệ công chúng trong các ngân hàng tại Việt Nam Văn học 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top