daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

LỜI NÓI ĐẦU
Học phần Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm được đưa vào giảng dạy cho sinh viên các trường Sư phạm và học viên các lớp nghiệp vụ sư phạm giáo viên phổ thông trong nhiều năm qua. Đây là học phần nối tiếp học phần Tâm lý học đại cương, nhằm cung cấp những tri thức chung nhất về tâm lý lứa tuổi, chủ yếu là lứa tuổi học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông, những cơ sở tâm lý của việc dạy học và giáo dục đạo đức cho học sinh, các phẩm chất và năng lực của giáo viên. Bằng sự tích hợp hệ thống lý luận của khoa học tâm lý và những kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học trong và ngoài nước, học phần giúp người học có những hiểu biết khá sâu sắc về tâm lý lứa tuổi cũng như những cơ sở tâm lý của dạy học và giáo dục, từ đó có thể rút ra các kết luận sư phạm cần thiết cho công tác tương lai.
Những năm gần đây xuất hiện một số tài liệu dịch và biên soạn nội dung của học phần này, tuy nhiên các tài liệu hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và giảng dạy bộ môn này theo hệ thống tín chỉ ở các cơ sở đào tạo trong ngành Sư phạm. Vì vậy, nhằm đáp ứng yêu cầu về giảng dạy, học tập và nghiên cứu cho sinh viên các trường Sư phạm và cho học viên các lớp nghiệp vụ sư phạm giáo viên phổ thông, bộ môn Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức biên soạn giáo trình này. Giáo trình được biên soạn theo hướng tinh lọc những kiến thức cơ bản và thiết thực phù hợp với đào tạo theo hệ thống tín chỉ. cấu trúc của giáo trình gồm 6 chương với sự đầu tư biên soạn của các cán bộ giảng dạy thuộc bộ môn Tâm lý học như sau:
Chương 1: Nhập môn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm (TS. Nguyễn Thị Tứ)
Chương 2: Tâm lý học tuổi thiếu niên (TS. Nguyễn Thị Tứ)
Chương 3: Tâm lý học tuổi thanh niên học sinh (ThS. Huỳnh Lâm Anh Chương)
Chương 4: Tâm lý học dạy học (ThS. Lý Minh Tiên)
Chương 5: Tâm lý học giáo dục đạo đức (ThS. Lý Minh Tiên)
Chương 6: Tâm lý học nhân cách giáo viên (ThS. Bùi Hồng Hà)
Trong quá trình biên soạn giáo trình, nhóm tác giả có tham khảo nhiều tài liệu, và do bảo đảm tính kế thừa các thành tựu tâm lý học đã có, nhóm đã sử dụng một số nội dung trong các giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đã xuất bản trước đây. Chúng tui rất trân trọng các thông tin đó và xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các tác giả, những nhà khoa học đi trước.
Nhóm tác giả đã cố gắng đến mức tối đa để giáo trình có những ưu điểm mới nhưng vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Bộ môn Tâm lý học và nhóm tác giả rất mong nhận được sự đóng góp và chia sẻ của các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy, sinh viên, học viên và những độc giả khác để giáo trình được tiếp tục hoàn thiện hơn.
Bộ môn Tâm lý học và nhóm tác giả
Chương 1: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chương này, người học :
Về kiến thức
- Biết, hiểu rõ đối/ tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm.
- Biết, hiểu rõ bản chất của các học thuyết tâm lý về sự phát triển tâm lý trẻ em, cùng với sự phân chia các giai đoạn lứa tuổi.
Về kỹ năng
- Vận dụng các học thuyết về sự phát triển tâm lý trẻ em để giải thích một số hiện tượng tâm lý thường gặp ở trẻ em trong các giai đoạn lứa tuổi khác nhau.
Về thái độ
- Quan tâm nhiều hơn đối với các vấn đề trẻ em và cách thức giáo dục trẻ em.
- Thể hiện thái độ tích cực khi xem xét các vấn đề của trẻ em.
1.1 Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
Từ khi Tâm lý học ra đời và phát triển mạnh mẽ với tư cách là một khoa học độc lập năm (1879) thì cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi việc nghiên cứu tâm lý phải được tiến hành một cách chuyên sâu, khiến cho rất nhiều ngành tâm lý học ứng dụng phát sinh. Ba năm sau sự ra đời của tâm lý học, vào năm 1882, nhà tâm lý học người Đức Preier lần đầu tiên cho xuất bản cuốn sách “Tâm hồn trẻ thơ” đánh dấu sự ra đời của ngành Tâm lý học lứa tuổi, nhưng Tâm lý học lứa tuổi chỉ trở thành một ngành khoa học độc lập vào cuối thế kỉ thứ XIX, đầu thế kỉ XX khi nó có xu hướng làm sáng tỏ những đặc điểm tâm lý lứa tuổi và tiến trình phát triển nhân cách cá nhân qua các giai đoạn lứa tuổi, với sự xuất hiện của bốn học thuyết lớn về sự phát triển tâm lý của trẻ em: Thuyết phân tâm, Thuyết hành vi, Thuyết phát sinh nhận thức và Thuyết hoạt động tâm lý.
Tâm lý học lứa tuổi không thể nghiên cứu con người một cách độc lập, tách rời khỏi những điều kiện tự nhiên và xã hội của đời sống, mà nó phải được nghiên cứu trong những điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục vì tách khỏi những điều kiện đó thì con người không thể phát triển bình thường được. Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng không thể xem xét tách rời khỏi đối tượng được giáo dục, vì thế Tâm lý học sư phạm cũng ra đời ngay sau đó. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có thể nói là những chuyên ngành tâm lý học ứng dụng được phát triển sớm nhất của khoa học tâm lý.
1.1.1 Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
1. 1.1.1. Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi
Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi là các hiện tượng tâm lý con người trong từng giai đoạn lứa tuổi từ bào thai đến tuổi già. Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu :
Động lực của sự phát triển tâm lý theo lứa tuổi, làm rõ nguyên nhân, điều kiện, các yếu tố gây ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự hình thành và phát triển tâm lý con người trong mỗi giai đoạn lứa tuổi, chỉ ra nhân tố nào đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý. Cụ thể, đó chính là những điều kiện về thể chất, điều kiện sống và các dạng hoạt động (học tập, giao tiếp...), những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân trong từng giai đoạn lứa tuổi.
Những đặc điểm các quá trình tâm lý và phẩm chất tâm lý của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu khả năng lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những cách hành vi và những giá trị tương ứng của các cá nhân trong từng độ tuổi. Đây là cơ sở quan trọng để tổ chức và điều khiển quá trình dạy học và giáo dục sao cho nội dung và phương pháp phù hợp với từng lứa tuổi khác nhau.
Ví dụ: Tâm lý học lứa tuổi chỉ ra đặc điểm tư duy ở tuổi thiếu niên là tư duy trừu tượng phát triển mạnh, nhờ đó mà thiếu niên có thể lĩnh hội được các tri thức lí luận mang tính khái quát cao. Do vậy, có thể đưa vào giảng dạy những môn học mang tính trừu tượng cao như Đại số, Hình học,...
Những quy luật hình thành và phát triển của các quá trình tâm lý và nhân cách con người, xem xét sự phát triển tâm lý của con người được phát triển ra sao, quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào. Việc tìm ra các quy luật phát triển tâm lý sẽ giúp ta thấy rõ được quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý người, từ đó đoán trước được sự phát triển hay lý giải được nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau trong từng giai đoạn lứa tuổi.
Ngày nay do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu khoa học ngày càng mở rộng, Tâm lý học lứa tuổi cũng chia thành nhiều phân ngành: Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, Tâm lý học nhi đồng, Tâm lý học thiếu niên, Tâm lý học thanh niên,...Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm
Trẻ em không thể tự lớn lên mà ngay từ khi mới chào đời trẻ em đã nhận được những tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. vấn đề là những tác động đó nên (được tổ chức ra sao cho phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi và những quy luật phát triển chung của con người, đó là những vấn đề mà Tâm lý học sư phạm cần giải đáp.
Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm là các hiện tượng tâm lý, các quy luật tâm lý (của người dạy - người học) trong quá trình dạy học và giáo dục, đảm bảo cho quá trình đó đạt hiệu quả tối ưu. Cụ thể, Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý của việc tổ chức, điều khiển quá trình dạy học và giáo dục, nghiên cứu các quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển trí tuệ được hiệu quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên với học sinh cũng như giữa học sinh với học sinh.
Tâm lý học sư phạm được chia thành nhiều phân ngành, chủ yếu là các phân ngành chính như Tâm lý học dạy học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học nhân cách giáo viên.
Tâm lý học dạy học đi sâu vào nghiên cứu cơ chế của việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các điều kiện tâm lý bên trong ảnh hưởng đến quá trình đó (nhu cầu, động cơ, hứng thú, vốn kinh nghiệm, trình độ phát triển trí tuệ, kỹ năng học tập...); ngoài ra còn nghiên cứu quá trình học tập với những hình thức khác nhau, theo dõi sự phù hợp của chúng với các đặc điểm cá nhân khác nhau trong từng giai đoạn lứa tuổi. Từ đó góp phần tổ chức, điều khiển quá trình dạy học sao cho hiệu quả nhất.
Tâm lý học giáo dục (theo nghĩa hẹp là giáo dục đạo đức) đi sâu vào nghiên cứu quy luật hình thành và phát triển những phẩm chất nhân cách của học sinh dưới tác động của giáo dục đạo đức, phân tích về mặt tâm lý cấu trúc của hành vi đạo đức và làm rõ cơ sở tâm lý học của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tâm lý học nhân cách giáo viên đi sâu vào nghiên cứu những phẩm chất và năng lực cần thiết đối với người làm công tác dạy học và giáo dục.
Nhiệm vụ của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
Nhiệm vụ của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là nghiên cứu những đối tượng trên, từ đó rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi; rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình dạy học và giáo dục, những biến đổi tâm lý của học sinh dưới ảnh hưởng của dạy học và giáo dục... Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và ứng dụng cần thiết, nhằm tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học và giáo dục.
Ý nghĩa của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
Việc nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong dạy học, giáo dục và trong đời sống. Việc hiểu biết những đặc điểm tâm lý con người ở từng độ tuổi khác nhau giúp chúng ta biết cách cư xử, có thái độ thích hợp khi giao tiếp với họ. Nắm bắt được những quy luật phát triển tâm lý sẽ giúp chúng ta theo dõi được sự phát triển, dự tính trước sự phát triển, đồng thời phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất bình thường ở trẻ em và người lớn, lý giải được nguyên nhân, từ đó có sự hỗ trợ cần thiết để giúp đỡ cho họ. Nắm bắt được những đặc điểm tâm lý và các quy luật tâm lý của người i dạy và người học trong các quá trình dạy học và giáo dục sẽ giúp chúng ta tổ chức quá trình sư phạm một cách hợp lý, đạt hiệu quả tối ưu.
Những kiến thức về Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm cũng sẽ giúp chúng ta lý giải được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong giao tiếp, ứng xử với người lớn và trẻ em, đặc biệt trong các quá trình dạy học và giáo dục trẻ em, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục kịp thời, giúp ta xây dựng được những phương pháp giáo dục hiệu quả, thích ứng với trẻ em trong từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau.
Mối liên hệ giữa Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng quan hệ mật thiết với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt là Tâm lý học đại cương, Giáo dục học, Giải phẫu sinh lý, Bệnh nhi học, Phương pháp giảng dạy bộ môn vv ...
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có sự gắn bó thống nhất với nhau vì cả hai ngành đều là những chuyên ngành ứng dụng của khoa học tâm lý, đều sử dụng những khái niệm cơ bản của Tâm lý học đại cương khi đi sâu vào nghiên cứu đối tượng của mình, đều có chung một khách thể nghiên cứu là những con người bình thường trong các giai đoạn phát triển, đặc biệt là trẻ em. Hai ngành đều đi sâu nghiên cứu về trẻ em và cùng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính đứa trẻ đó.
Tuy nhiên. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm cũng có sự tách rời nhau để đi vào nghiên cứu những vấn đề chuyên sâu. Tâm lý học lứa tuổi chủ yếu nghiên cứu các đặc điểm tâm lý, động lực phát triển tâm lý, các quy luật của sự phát triển tâm lý con người trong từng giai đoạn lứa tuổi, còn Tâm lý học sư phạm đi sâu vào nghiên cứu những con đường, những quy luật hình thành nhận thức, những vấn đề thuộc về dạy học và giáo dục con người, đặc biệt là trẻ em.
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư- phạm có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi sẽ là những cơ sở quan trọng để Tâm lý học sư phạm vận dụng nhằm vạch ra những cơ sở tâm lý cho việc tổ chức và điều khiển quá trình sư phạm đạt hiệu quả tối ưu. Ngược lại, Tâm lý học sư phạm sẽ làm cho những kiến thức của Tâm lý học lứa tuổi sẽ cụ thể hơn khi xem xét nó trong quá trình dạy học và giáo dục con người qua từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau.
1.2 Lý luận về trẻ em và sự phát triển tâm lý trẻ em
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm nghiên cứu tâm lý con người qua các giai đoạn lứa tuổi khác nhau, tuy nhiên những công trình nghiên cứu về tâm lý trẻ em và cách thức giáo dục trẻ em luôn áp đảo so với các giai đoạn lứa tuổi khác, bởi trẻ em là những con người đang trưởng thành và là đối tượng cần được giáo dục hơn cả.
1.2.1 Quan niệm về trẻ em
1.2.1.1 Các tư tưởng cổ xưa và phong kiến về trẻ em
Từ xa xưa, cả ở phương Đông và phương Tây, vấn đề bản tính trẻ em và giáo dục trẻ em đã được xã hội đặt ra và tìm cách giải quyết. Tuy đã có nhiều quan niệm khác nhau nhưng đại đa số đều cho rằng, bản tính (tốt hay xấu) của trẻ em từ khi mới sinh ra đã có sẵn, trẻ em và người lớn chỉ khác nhau về lượng chứ không khác nhau về chất. Do quan niệm như vậy nên trong suốt thời kỳ phong kiến, trẻ em được đối xừ như một “người lớn thu nhỏ”, mọi sinh hoạt và phương tiện sinh hoạt đều rập theo khuôn mẫu người lớn (nhưng có kích cỡ nhỏ hơn). Trẻ em cùng được lao động, sản xuất, ăn uống, vui chơi, hội hè bên cạnh người lớn mà không được quan tâm chăm sóc và giáo dục riêng.
1.2.1.2. Các quan niệm và nghiên cứu về trẻ em từ thế kỷ XVII
Bước sang thế kỷ XVII, ở phương Tây xuất hiện hai khuynh hướng giải quyết vấn đề về bản tính trẻ em và giáo dục trẻ em:
Khuynh hướng thứ nhất là quan điểm của các nhà triết học duy cảm Anh thế kỷ XVII - XVIII, họ cho rằng trẻ em thụ động trước tác động của môi trường vì thế họ đề cao quá mức vai trò của môi trường xã hội đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em.
Khuynh hướng thứ hai quan niệm ngược lại rằng, trẻ em tích cực trước tác động của môi trường. Đại biểu của khuynh hướng này là nhà văn, nhà triết học lớn người Pháp J.J. Rousseau (1712 -1778). ông quan niệm rằng trẻ em và người lớn khác nhau không chỉ về lượng mà còn về chất, “trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của nó. Ông cho rằng trẻ em từ khi mới sinh ra đã có những khuynh hướng tự nhiên và tích cực, chúng tham gia tích cực vào việc hình thành trí tuệ và nhân cách của mình như một nhà thám hiểm bận rộn, biết phân tích và có chủ định. Mọi sự can thiệp của người lớn vào sự phát triển tự nhiên của trẻ đều có hại. Vì vậy ông đề nghị nên có một nền giáo dục xã hội theo nguyên tắc tự nhiên và tự do cho trẻ. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu vào nghiên cứu về trẻ em, chưa cho chúng ta hiểu biết nhiều về trẻ em.
1.2.1.3 Quan niệm duy vật biện chứng về trẻ em
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Tâm lý học lứa tuổi ra đời và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt dòng Tâm lý học hoạt động ra đời đã giúp ta nhìn nhận rõ hơn về bản tính trẻ em và cách thức giáo dục trẻ em. Những nhà Tâm lý học hoạt động khẳng định rằng:
Trẻ em và người lớn khác nhau cả về lượng và chất (khác nhau cả về mặt hình thức lẫn nội dung). Trẻ em có đặc điểm tâm lý riêng của trẻ em, những đặc điểm tâm lý này vận động và phát triển theo quy luật riêng củà trẻ em, cũng như người lớn vận động và phát triển riêng theo quy luật của người lớn. Vì thế người lớn không phải lúc nào cũng có thể hiểu được suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm,... của trẻ mặc dù người lớn cũng đã trải qua thời thơ ấu và thời niên thiếu như trẻ em. Người lớn muốn dạy học và giáo dục trẻ em thì cần có ngôn ngữ và cách thức riêng để giao tiếp với trẻ.
Trẻ em là con đẻ của thời đại. Thời đại nào thì sẽ sản sinh ra trẻ em của thời đại đó. Những thành tựu trong tâm lý học đại cương đã khẳng định, tâm lý người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Con người sống trong thời đại nào thì tâm lý sẽ chịu sự chế ước của các điều kiện xã hội (kinh tế, chính trị, pháp quyền...) của thời đại đó, vì vậy trẻ em thế hệ ngày hôm ngy sẽ khác với trẻ em thế hệ trước. Vì vậy, muốn nghiên cứu trẻ em không được nghiên cứu trẻ em một cách chung chung trừu tượng, mà phải nghiên cứu trẻ em trong những điều kiện xã hội cụ thể.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top