Download miễn phí Giao thức mạng chuyển mạch gói





 1. Mở đầu
 2. X.25 (84) cấp 1 - cấp vật lý
 3. X.25 (84) cấp 2 - cấp tuyến số liệu
 3.1. Thể thức khung của LAPB
 3.2. Các kiểu khung LAPB
 3.3. Các trường (vùng) N(R) và N(S)
 3.4. Bit P
 3.5. Thao tác cấp tuyến số liệu
 3.6. Các tham số hệ thống
 4. Cấp X.25 thứ 2 - Một số gợi ý thực tế
 5. Cấp X.25 (84) cấp 3 - cấp mạng (lớp mạng)
 5.1. Khuôn mẫu gói cấp mạng
 5.2. Các kiểu gói cấp mạng
 5.3. Các địa chỉ dãy cấp mạng
 5.4. Trường mã nhận dạng khuôn mẫu
 5.5. Cung đoạn tái khởi động
 5.6. Thiết lập các cuộc gọi thử
 5.7. Cung đoạn chuyển giao tin
 5.8. Trường mã dịch vụ
 6. Cấp X.25 - 3 - Một số hướng dẫn thực tế
 7. X.75
 7.1. Cấp vật lý của X.75
 7.2. Cấp tuyến của X.75
 7.3. Cấp mạng của X.75
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

cạnh nào đó của sự thao tác cấp tuyến số liệu.
Đại lượng T1 là khoảng thời gian mà máy phát khung lệnh chờ một đáp ứng trước khi lại phát đi một lệnh có gắn bít đầu. Đôi khi gọi đây là khoảng tái thử. T1 phải lớn hơn thời gian dùng để phát một khung có độ dài cực đại và nhận một đáp ứng cho khung này, nó có thể là một khung cực đại. Nó tuỳ từng trường hợp vào tốc độ phát các bít theo tuyến thông tin và khoảng trễ xử lý ở máy thu.
Còn có khoảng định thời nữa, đó là T2, nó được xác định như là thời gian cực đại cần dùng trước khi máy thu thu một khung và phát đi một khung xác nhận việc thu khung này. Nó luôn ngắn hơn T1. Điều này thực tế thích hợp để phát đi một khung xác nhận việc thu một khung càng sớm càng tốt.
Khoảng định thời gian T3 xác định một DXE phải chờ bao lâu đối với lệnh thiết lập tuyến trước khi bắt đầu phát đi các DISC ở cung đoạn lâp tuyến. Giá trị này là T1xN2.
N2 là số lần cực đại để một khung lệnh được phát lại trước khi tuyến được tái khởi động.
Thực chất nếu T1đã hết N2 lần thì máy phát từ bỏ và tái khởi động tuyến bởi SABM hay SABME. PSS dùng giá trị 20 đối với N2. Các mạng khác nhau có thể quy định các giá trị N2 khác nhau nhưng chúng hoàn toàn giống PSS.
N1 là số bít cực đại có thể có trong một khung I. Nó bao gồm các cụm IA, C, I, và FCS. Ví dụ nếu kích cỡ cụm I cực đại cho một tuyến là 128 bytes thì N1 sẽ là 1064. Tham số hệ thống k là số lượng cực đại của các khung I được đánh số tuần tự mà một DXE có thể phát đi nhưng không được xác nhận ở bất cứ lần nào (tức là kích cỡ cửa sổ). PSS xác định giá trị k là 7 vì nó không bổ trợ cho cách làm việc mở rộng.
4. Cấp X.25 thứ 2 - Một số gợi ý thực tế
Điều quan trọng nhất xảy ra khi thử nối hai thiết bị với nhau là tìm một sợi cáp để làm việc và cung cấp đồng hồ cho cấp tuyến số liệu (tức là các vấn đề cấp vật lý). Sau đó là tới cấp tuyến số liệu. Một DTE chỉ trao đổi với một DCE; các DTE khác sẽ không trao đổi với các DTE và các DCE cũng không trao đổi với các DCE. Vì vậy điều đầu tiên cần làm để đảm bảo một thiết bị là một DCE, thiết bị khác là một DTE. Ngay sau khi điều đó đã được thực hiện thì cấp tuyến số liệu hoàn thành mà không còn sự rắc rối nào nữa.
Tham số cấu hình quan trọng nhất là giá trị định thời T1. Nó cần được thiết lập chuẩn xác cho tốc độ mà tuyến được cấp đồng hồ nhịp. Đừng quên rằng T1 cần được thiết lập ở cả DCE và DTE.
Điều gì xảy ra khi T1 thiết lập không chuẩn xác? Nếu T1 không đủ lớn, có thể không đủ thời gian để phát đi một khung dài và xác nhận nó trước khi T1 hết hạn. Điều đó dẫn tới một loạt sự phát lại khung không cần thiết và làm cho việc truyền số liệu kém hiệu quả.
Nếu T1 quá lớn thì sự chậm trễ nghiêm trọng có thể xảy ra khi cần phát lại khung. Cả hai trường hợp đều không xảy ra nguy hiểm nhưng thực tế để tạo lập tuyến có hiệu suất tốt thì đòi hỏi phải thiết lập T1 chuẩn xác.
Tham số cấu hình quan trọng khác cho cấp tuyến là N2. Đó là số lần phát lại một khung trước khi tuyến số liệu được tái lập. Giá trị 20 là hợp lý. N2 không phụ thuộc vào tố độ của tuyến.
T1 và N2 có quan hệ sao cho T1 x N2 là thời gian cực đại cần để phục hồi tuyến số liệu từ một sự cố nghiêm trọng. Nếu giá trị này quá lớn thì thời gian này có thể mất nhiều phút. Cho dù điều này không thường xuyên xảy ra.
Nếu tuyến thông tin giữa DTE và DCE có chất lượng tốt thì lỗi FCS hâù như không xảy ra. Nếu tuyến bị nhiễu loạn sẽ xảy ra nhiều lỗi FCS. Các khung bị lỗi có thể được đưa qua công việc kiểm tra FCS, FCS không làm gì khác, nó chỉ từ chối hầu hết các khung bị lỗi. Đây là một trạng thái nghiêm trọng vì sự huỷ hoại của số liệu cấp mạng có thể xảy ra mà không được phát hiện bởi các giao thức cấp mạng cao hơn.
Cho dù việc này không trầm trọng thì lỗi FCS thường xuyên sẽ làm cho tuyến số liệu kém hiệu quả vì phải phát lại khung nhiều lần như một hậu quả.
5. Cấp X.25 (84) cấp 3 - cấp mạng (lớp mạng)
Cấp X.25 thứ 2 tạo ra cách để chuyển tin giao thức cấp cao hơn (trong các khung tin ) giữa hai đầu cuối của một tuyến thông tin đảm bảo chuẩn xác, điều khiển lưu lượng chuyển số liệu. Cấp X.25 cấp 3 tạo cho số liệu được phát đi trong các khung tin. Đơn vị số liệu ở cấp mạng là gói.
Giao thức cấp mạng trên cơ bản xác định thao tác gọi ảo qua giao thức cấp tuyến .Mỗi cuộc gọi ảo được lớp mạng tạo ra cho các giao thức cấp cao hơn là một tuyến có điều khiển theo luồng giữa DXE nội hạt và một DXE xa qua mạng.
X.25 cấp 3 thực tế được định nghĩa là một giao thức giữa một DTE và một DCE đấu nối trực tiếp qua một tuyến thông tin. DTE có thể như là một PAD còn DCE có thể là một thiết bị chuyển mạch gói X.25. Có thể có nhiều kiểu mạng khác nhau dạng được sử dụng để cung cấp tuyến nối giữa hai DXE. Thế nhưng điều quan trọng là giao tiếp cấp mạng giữa DTE và DCE phải giữ giống nhau dù cho các mạng bao gồm cả các tuyến truyền giữa DXE nội hạt và DXE xa.
5.1. Khuôn mẫu gói cấp mạng
Mỗi một gói cấp mạng có cùng khuôn mẫu đầu đề 3 bytes mô tả ở hình 8. Cụm nhận dạng khuôn mẫu chung (GFI) là khối 4 bít được dùng để chỉ thị khuôn mẫu chung cho phần còn lại của đầu đề. Công việc mã hoá của cụm GFI sẽ được mô tả trong khi mô tả các kiểu gói.
GFI+LCGN
LCN
PTI
Phần còn lại của gói
Hình 8. Khuôn mẫu gói cấp mạng
Cụm thứ hai của bytes đầu này của gói là địa chỉ nhóm kênh lôgic (LCGN). Nó kéo sang cả bytes thứ hai tạo thành địa chỉ kênh lôgic (LCN) 12 bit, nó dùng để nhận dạng cho từng cuộc gọi ảo riêng biệt. Byte thứ ba là cụm nhận dạng kiểu gói (PTI), nó định ra chức nǎng của gói.
5.2. Các kiểu gói cấp mạng
Bảng 2 trình bày các kiểu gói cấp (lớp) mạng. Lưu ý rằng cùng một gói có thể gọi tên khác nhau tuỳ từng trường hợp vào DTE hay DTE phát nó đi. ở cả hai trường hợp, mã hoá cụm PTI là giống nhau vì khi chuyển tới đó thì các gói đều giống nhau.
Khác với cấp tuyến số liệu, ở đây DCE được phép làm một số việc mà DTE không thể làm, vì vậy sự phân biệt này là quan trọng.
Lưu ý rằng các gói thiết lập và xoá cuộc gọi chỉ có hiệu lực đối với các cuộc gọi ảo có chuyển mạch (SVCS), trong khi đó các gói khác có hiệu lực đối với cả SVCs và cả các mạch ảo cố định (PVCs). Các PVC giống các SVC, chỉ khác là ngay khi từ cấp tuyến số liệu đi lên, các PVC đi thẳng vào cung đoạn chuyển tin, bỏ qua cung đoạn thiết lập gọi. Các PVC ít khi được sử dụng nên chúng ta sẽ không thảo luận về chúng nữa.
Các gói thiết lập và xoá cuộc gọi
Gói gọi vào và yêu cầu gọi dùng để yêu cầu thiết lập một cuộc gọi ảo giữa DXE phát gói này và DXE thu gói này. Gói chỉ cuộc gọi được đấu nối hay cuộc gọi được tiếp nhận được dùng để trả lời cho gói yêu cầu gọi hay gói chỉ cuộc gọi vào để chỉ thị rằng cuộc thử nối được tiếp nhận và bây giờ cuộc gọi được tiến hành.
Gói yêu cầu giải toả và biểu thị giải toả được dùng hoặc...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top