Curney

New Member
Download Tiểu luận Giá trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm của Hegel miễn phí



MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2
Chương I: Đặc điểm Kinh tế xã hội và đặc điểm Triết học Tây Âu và cổ điển Đức .3
I. Đặc điểm kinh tế xã hội và đặc điểm triết học ở Tây Âu.3
1.Đặc điểm kinh tế- xã hội Tây Âu thời cận đại 3
2.Đặc điểm triết học Tây Âu thời cận đại .3
II. Điều kiện kinh tế xã hội Đức thời cận đại và đặc điểm của Triết học cổ điển Đức .4
1. Điều kiện kinh tế- xã hội Đức thời cận đại 4
2. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức .5
Chương II: Giá trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm của Hegel .7
I. Giới thiệu chung về Heghen và triết học Hegel .7
II. Nội dung phép biện chứng duy tâm của Hegel .8
1.Tiền đề .8
1.1.Phép biện chứng cổ điển của Heraclit . 8
1.2.Tư tưởng triết học duy tâm tại Đức - nguồn gốc lịch sử của duy tâm tuyệt đối Hegel .9
2. Nội dung cơ bản của BCDT Hegel .12
2.1.Phương pháp luận biện chứng 12
2.2. Hệ thống các phạm trù, quy luật .13
III. Giá trị và hạn chế của phép Biện chứng Duy tâm của Hegel 14
1.Giá trị 14
1.1.Tiến bộ hơn những tư tưởng triết học cùng thời 14
1.2.Tạo tiền đề cho TH Mac-Lênin: .15
1.3.Ý nghĩa của phép BC đó đối với sự phát triển của các khoa học khác .15
2.Hạn chế .17
2.1.Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm .17
2.2.Hệ thống triết học đóng .17
2.3.Mâu thuẫn khi tìm cách lý giải các vấn đề xã hội .18
KẾT LUẬN .19
LỜI MỞ ĐẦU
Theo chúng tui đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau, đồng thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hegel đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nói chung, một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến nay. Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng qua các thời đại trước đây, chúng ta tuyệt nhiên không được tô vẽ, không được hiện đại hoá quan điểm của họ. Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi, không được biện hộ một chiều các quan điểm đã lỗi thời hay bị hạn chế bởi những điều kiện của lịch sử. Muốn vậy phải biết phân biệt những gì là giá trị trong di sản triết học với những xuyên tạc hay lý giải tuỳ tiện về những “ di sản” đó. Một mặt, khi xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn chế lịch sử những khiếm khuyết sai lầm của nhà tư tưởng đó, phải đặt nó trong điều kiện lịch sử cụ thể để có được những đánh giá khách quan và chính xác nhất. Làm tốt được điều trên đối với hệ thống Triết học Biện Chứng Hegel không phải dễ dàng, bởi vì triết học Hegel không những quá đồ sộ và uyên bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong chính nó không ít những mâu thuẫn, những xu hướng khác nhau. Tuy nhiên, điều đó cũng không thể làm lu mờ giá trị và sức sống mạnh mẽ của triết học biện chứng của ông.

CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TÂY ÂU VÀ CỔ ĐIỂN ĐỨC.
I. Đặc điểm kinh tế xã hội và đặc điểm triết học ở Tây Âu.
1. Đặc điểm kinh tế- xã hội Tây Âu thời cận đại.
Trong thời kỳ này( thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị: Cách mạng tư sản Hà Lan, Cách mạng tư sản Anh, Cách mạng tư sản Pháp... cách sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành cách sản xuất thống trị, nó đặt ra những yêu cầu mơi cho khoa học kỹ thuật phát triển. Đấy là thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu phân ngành mạnh, hình thành các bộ môn khoa học độc lập như toán học, vật lý học, hoá học, sinh học... Đặc trưng của khoa học thời kỳ này là khoa học tự nhiên thực nghiệm, các tri thức khoa học hầu hết là sản phẩm của thực nghiệm, vì vậy thường dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng trong sự trừu tượng, tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển...
Chính những đặc trưng về kinh tế - xã hội và khoa học tự nhiên thời kỳ cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học của thời kỳ này.
2. Đặc điểm triết học Tây Âu thời cận đại.
Triết học tự nhiên trong thời kỳ cận đại này gắn liền với những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là lý luận cơ học đã thấm đượm cách tư duy siêu hình của khoa học tự nhiên. cách tư duy siêu hình đã chi phối những hiểu biết triết học về bản nguyên và bản tính của thế giới. Người ta giải thích mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên bằng các lực tương tác cơ học ( lực hấp dẫn và lực đẩy cơ học) giữa các phần tử. Còn các phần tử vật thể luôn bất biến, cái thay đổi chỉ là không gian và tập hợp của chúng. Trong thời kỳ này tư tưởng chủ yếu là của các nhà triết học theo đường lối duy vật siêu hình. Điển hình là các nhà triết học như: Bêcơn, Hốpxơ, Lamêtơri, Điđrô... Họ đều thừa nhận thế giới vật chất là có trước, vĩnh cửu và vô tận, không do ai sáng tạo ra và không ai có thể tiêu diệt. Vận động gắn liền với vật chất và nhờ có vận động mà giới tự nhiên luôn luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Triết học trong thế kỷ XVII – XVIII ra đời trong điều kiện khoa học tự nhiên được tách rời khỏi triết học và phát triển. Vấn đề đặt ra là làm sao tìm được phương pháp khoa học chung của nhận thức và phải khái quát và hệ thống hoá các khoa học đã tách ra đó. Do đó, nhiệm vụ trọng tâm của triết học cận đại XVII-XVIII là lý luận nhận thức, là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các khoa học. Những vấn đề ấy đã được các nhà tư tưởng thời kỳ này nghiên cứu, họ đã đi tìm các quy luật của lý tính mà khả năng của lý tính được biểu hiện một cách vô hạn Nhưng xét lý tính của thời đại mà các nhà triết học đang sống theo như Ph.Bêcơn thì còn nhiều quan niệm, khái niệm sai lầm. Các nhà triết học đã đi tìm chân lý cơ bản của nhận thức và các phương pháp ấy sẽ dẫn con người đến chân lý vĩnh hằng, đầy đủ, tuyệt đối. Cơ sở của phương pháp ấy được các nhà triết học xem là kinh nghiệm cảm tính(Bêcơn, Hốpxơ, Lôccơ), hay là lý tính nó đem lại tri thức logic toán học- diễn dịch không bị quy định bởi kinh nghiệm của con người( Đềcáctơ, Lepsnich, Xponoda...). Cuộc luận chiến giữa các nhà triết học xung quanh việc tìm cơ sở của phương pháp mới chính là cuộc luận chiến giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thời kỳ cận đại. Tuy nhiên, trong thực tế, chủ nghĩa duy lý và phương pháp tương tự của nó luôn thắng thế, nó được sử dụng rộng rãi. Khuynh hướng duy lý của triết học cận đại với phương châm thế tục hoá đầy đủ khoa học, khẳng định không có một uy tín nào được thừa nhận ngoài uy tín của lý tính, đẩy khoa học lên hàng đầu các môn quan trọng của nhân loại, vì nó có khả ngăn giảm bớt sự đói cùng kiệt , có khả năng làm giàu, có khả năng đưa xã hội phát triển ( Bêcơn). Sự phát triển của khoa học bắt tự nhiên lệ thuộc vào con người khi hình thành phương pháp cơ bản của tư duy- phương pháp lý tính thuần tuý. Khuynh hướng trên trong phương pháp hiện đại gọi là phương pháp siêu hình học. Đây là mâu thuẫn bên trong lý luận nhận thức của triết học cận đại và triết học cổ điển Đức đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn này.
II. Điều kiện kinh tế xã hội Đức thời cận đại và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
1. Điều kiện kinh tế- xã hội Đức thời cận đại.
Cuối thế kỷ XVIII, nước Đức còn ở trình độ rất lạc hậu vì hai lý do:
Về địa lý đứng ngoài những đường thương mại quốc tế lớn, chủ yếu bấy giờ đang phát triển ở bờ biển Đại Tây Dương (tư bản phát triển ở Anh, Hà Lan, Pháp), trong tình trạng bấy giờ Đức không có điều kiện phát triển ngoại thương.
Trong lịch sử thế kỷ thứ XVI và XVII, các lực lượng tiến bộ ở Đức đã bị đàn áp và tiêu hủy phần lớn, đặc biệt là trong “Chiến tranh nông dân” là cuộc chiến tranh trong đó cải cách tôn giáo của Luther chống phong kiến. Phong trào Luther lúc đầu lôi cuốn nông dân đi với công thương và tiểu phong kiến chống lại phong kiến và Giáo hội. Nhưng kết quả của nó chỉ là sự thất bại của nông dân, và chỉ đi đến sự xóa bỏ một phần quyền lợi Giáo hội, đề cao quyền lực các hoàng thân (Chúa chư hầu) với cải cách của Luther. Nó chỉ là thắng lợi của chế độ hoàng thân dựa vào tiểu phong kiến và lôi cuốn bọn tư sản và tiểu tư sản đầu hàng, còn nông dân thì bị đàn áp hoàn toàn. Sau đó, những hạng tiểu tư sản và tư sản cũng bị đàn áp không ngóc đầu lên được. Chế độ thắng là chế độ phân quyền, các hoàng thân cát cứ ngăn trở kinh tế tư sản phát triển. Qua nửa đầu thế kỷ XVII, lại có chiến tranh 30 năm với sự can thiệp của hầu hết các cường quốc Âu châu, đã tiêu hao gần hết lực lượng của Đức.
Do những nguyên nhân đó, tới thế kỷ XVIII, Đức rất lạc hậu: phong kiến còn phân quyền, nhưng giai cấp tư sản lại được ảnh hưởng tư tưởng giai cấp tư sản Âu Tây nói chung (nhất là Anh, Hà Lan, Pháp). Mức yêu cầu đứng về khái niệm là mức yêu cầu của cách mạng Âu Tây, nhưng lại mâu thuẫn với tình trạng thực tế rất thấp, chỉ đi đến liên minh các chư hầu mở đường cho giai cấp tư sản phát triển phần nào về kinh tế, tham gia hành chính phần nào, nhưng chưa có vấn đề nắm chính quyền.
2. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức.
Khái niệm triết học cổ điển Đức là dùng để chỉ sự phát triển của triết học nước Đức cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của triết học hiện đại.
Lý luận về bản thể trong triết học cổ điển Đức đầy những mâu thuẫn. Có duy vật, duy tâm và cả nhị nguyên luận, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng do ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ của Đức, triết học duy tâm vẫn chiếm ưu thế hơn. CanTo – người sáng lập ra triết học cổ điển Đức trong thời kỳ hoạt động khoa học đã xây dựng giả thuyết về sự hình thành của vũ trụ, theo đó thì sự hình thành và tiến hoá của các hệ hành tinh là bắt nguồn từ “ đám mây mù” đầu tiên. Về sau, CanTo chuyển sang hoạt động triết học và triết học của ông là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận thế giới các “ vật tự nó” tồn tại khách quan có thể tác động lên các giác quan của con người, mặt khác ông lại khẳng định các vật mà ta có thể nhận thấy được lại không liên quan đến thế giới “ vật tự nó. Chúng chỉ là những hiện tượng phù hợp với các cảm giác, tri giác do lý tính của con người tạo ra, nghĩa là con người chỉ nhận thức được cái bề ngoài mà không nhận thức được cái bản chất đích thực của sự vật. Hegel lại cho rằng nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội là ý niệm tuyệt đối. Từ điểm xuất phát đó, ông đã dựng lên một hệ thống triết học duy tâm khách quan. Phoiabac- nhà duy vật, vô thần lớn nhất trong lịch sử triết học cận đại lại cho rằng: Thế giới là thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ triết học nào. Cơ sở tồn tại của thế giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên.
Thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển Đức là phép biện chứng. Phép biện chứng khách quan của cổ điển Đức bắt đầu từ CanTo qua Phicto, Selinh và đỉnh cao là Hegel.’



Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:



xem thêm:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vai trò của nó đối với con người
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
A Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp quản lý chất thải rắn tại thành phố đông hà tỉnh Quảng trị Khoa học Tự nhiên 0
D Ảnh hưởng của hình ảnh nhà hàng, giá trị cảm nhận đến sự hài lòng và ý định hành vi của khách hàng Luận văn Kinh tế 0
M ad tải giúp em bài : ảnh hưởng của hình ảnh nhà hàng, giá trị cảm nhận đến sự hài lòng và ý định hành vi của khách hàng với ạ Khởi đầu 1
D giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người Văn hóa, Xã hội 0
D Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh giá trị và hạn chế Môn đại cương 0
D Xây dựng thang bảng lương theo đánh giá gía trị công việc cho công ty cổ phần đầu tư và xây dựng HUD3 Luận văn Kinh tế 0
D Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh hòa bình Văn hóa, Xã hội 0
D Phân tích các hoạt động marketing, marketing online và chiến lược cung ứng giá trị của Vinfast Luận văn Kinh tế 0
D Đánh giá hoạt động quản trị danh mục đầu tư và trạng thái thanh khoản của 1 NHTM Việt Nam trong giai đoạn gần đây Luận văn Kinh tế 0
D Nghiên cứu xử lý nâng cao giá trị của bã đậu nành (okara) bởi Bacillus amyloliquefaciens N1 và Lactobacillus fermentum DC4t2 Nông Lâm Thủy sản 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top