tranmainhatk5

New Member

Download Bình luận việc Việt Nam bảo lưu điều 33 khi tham gia công ước berne 1886 về quyền tác giả miễn phí





Điều 33 của công ước beren quy định về vấn đề thẩm quyền và bảo lưu đối với thẩm quyền này, rút bảo lưu.
Tại Khoản 1 có quy định:” Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều nước thành viên Liên hiệp liên quan đến cách giải thích hay áp dụng Công ước này mà không giải quyết được bằng thương lượng, có thể một trong những nước hữu quan đưa ra Toà án công lý quốc tế bằng cách nộp đơn khiếu nại theo đúng quy định của Toà án, trừ khi các nước này thoả thuận tìm một cách giải quyết khác. Nước nguyên cáo sẽ thông báo cho Phòng Quốc tế về những tranh chấp đã đưa ra Toà và Phòng Quốc tế sẽ thông báo cho các nước thành viên Liên hiệp.” Đây chính là cơ chế giải quyết tranh chấp mà Công Ước quy định cho các quốc gia thành viên để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện bảo hộ quyền tác giả Cơ chế bảo lưu này dựa trên sự phán quyết của Tóa Án công lý quốc tế khi có yêu cầu của một nước thành viên. Cơ chế này được thực hiện một cách bảo đảm và có hiệu quả thực thi cao Tuy nhiên, nếu thực hiện theo cơ chế giải quyết này, sẽ rất mất thời gian, và chi phí để giải quyết them vào đó là sự phức tạp của các thủ tục quốc tế.
 



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

MỞ ĐẦU:
Ngày này, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, của internet, sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng được nâng cao. Chính vì thế yêu cầu đặt ra về bảo hộ quyền tác giả ngày càng trở nên bức thiết. Cùng với việc gia nhập công ước Berne 1886, Việt Nam dã tiến một bước dài trong con đường hội nhập văn hóa với thế giới, bởi lẽ, Công Ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả là công ước có uy tin lâu năm, được sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với tình hình thức tế và hệ thống các nước thành viên rộng lớn. Việt Nam tham gia công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả nhưng có sự bảo lưu Điều 33 của công ước, chính vì sự bảo lưu này mà có nhiều vấn đề và yêu cầu phát sinh.
NỘI DUNG
I, Khái quát chung:
Trước tiên ta cần hiểu: Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hay tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi kí, phê chuẩn, phê duyệt hay ra nhập điều ước quốc tế đó, nhằm qua đó loại trừ hay thay đổi hiệu lực của một hay một số quy định của điều ước quốc tế trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó.
Việc bảo lưu đó có thể do Điều Ước Quốc Tế quy định trong nội dung , có thể là do các quốc gia thành viên của Điều Ước Quốc Tế đồng thuận cho quốc gia đó bảo lưu những điều khoản nhất định.
Tại Điều 33 Công Ước Berne 1886 có quy định:
1. Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều nước thành viên Liên hiệp liên quan đến cách giải thích hay áp dụng Công ước này mà không giải quyết được bằng thương lượng, có thể một trong những nước hữu quan đưa ra Toà án công lý quốc tế bằng cách nộp đơn khiếu nại theo đúng quy định của Toà án, trừ khi các nước này thoả thuận tìm một cách giải quyết khác. Nước nguyên cáo sẽ thông báo cho Phòng Quốc tế về những tranh chấp đã đưa ra Toà và Phòng Quốc tế sẽ thông báo cho các nước thành viên Liên hiệp.
2. Mọi nước, khi ký kết hay đệ trình văn bản phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này, đều có thể tuyên bố mình không chịu ràng buộc bởi những quy định ở khoản (1). Trong trường hợp này, những tranh chấp giữa nước đó với những nước thành viên Liên hiệp khác sẽ không áp dụng quy định ở khoản (1).
3. Một nước tuy đã ra tuyên bố về quy định ở khoản 2 có thể, vào bất kỳ lúc nào, rút lại tuyên bố đó bằng cách gửi thông báo cho Tổng giám đốc.
Điều 33 đã quy định rõ ràng về: cơ chế giải quyết tranh chấp quyền bảo hộ tác giả qua Tóa Án Quốc Tế ; đồng thời quy định về việc cho phép thành viên công ước bỏa lưu cách giải quyết tranh chấp trên để lựa chọn cho mình một cách khác; Cơ chết rút bảo lưu.
II, Bình Luận Vấn đề Việt Nam bảo lưu Điều 33 Công Ước Berne 1886:
Khi tham gia Công Ước Berne(sau đây gọi tắt là công ước), dựa vào nội dung được quy định tại Điều 33 Công Ước về việc cho phép bảo lưu Đoạn 1 Điều 33, Việt Nam đã tuyên bố thực hiện quyền bảo lưu đó.
1, Cơ chế tiến hành bảo lưu:
Sau các thủ tục cẩn thiết, Việt Nam đã tham gia Công Ước Berne 1886 và cùng với việc tham gia Công Ước,, chủ tịch nước đã ra quyết định số 332/2004/QĐ-CTN ngày 7 tháng 6 năm 2004 về việc gia nhập công ước berne trong đó điều 2 của quyết định này đã quy định rõ:
“ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tuyên bố: bảo lưu các quy định tại Điều 33 của Công ước Berne và áp dụng chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo Điều II và Điều III của Phụ lục Công ước”.
Đây chính là cơ sở pháp lý Việt nam bảo lưu điều 33 của công ước Berne,.
2, Vấn Đề Bảo lưu Điều 33 Công Ước berne:
Điều 33 của công ước beren quy định về vấn đề thẩm quyền và bảo lưu đối với thẩm quyền này, rút bảo lưu.
Tại Khoản 1 có quy định:” Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều nước thành viên Liên hiệp liên quan đến cách giải thích hay áp dụng Công ước này mà không giải quyết được bằng thương lượng, có thể một trong những nước hữu quan đưa ra Toà án công lý quốc tế bằng cách nộp đơn khiếu nại theo đúng quy định của Toà án, trừ khi các nước này thoả thuận tìm một cách giải quyết khác. Nước nguyên cáo sẽ thông báo cho Phòng Quốc tế về những tranh chấp đã đưa ra Toà và Phòng Quốc tế sẽ thông báo cho các nước thành viên Liên hiệp.” Đây chính là cơ chế giải quyết tranh chấp mà Công Ước quy định cho các quốc gia thành viên để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện bảo hộ quyền tác giả Cơ chế bảo lưu này dựa trên sự phán quyết của Tóa Án công lý quốc tế khi có yêu cầu của một nước thành viên. Cơ chế này được thực hiện một cách bảo đảm và có hiệu quả thực thi cao Tuy nhiên, nếu thực hiện theo cơ chế giải quyết này, sẽ rất mất thời gian, và chi phí để giải quyết them vào đó là sự phức tạp của các thủ tục quốc tế.
2. Mọi nước, khi ký kết hay đệ trình văn bản phê chuẩn hay gia nhập Đạo luật này, đều có thể tuyên bố mình không chịu ràng buộc bởi những quy định ở khoản (1). Trong trường hợp này, những tranh chấp giữa nước đó với những nước thành viên Liên hiệp khác sẽ không áp dụng quy định ở khoản (1). Đây chính là Điều Khoản quy định về quyền bảo lưu đối với có cơ chế được nêu ở đoạn 1, Sự quy định này đã tạo ra một cơ chế mở cho các thành viên của Công Ước, được tự lựa chọn cho mình một cách giải quyết tranh chấp sao cho nhanh, gọn, tránh lãng phí thời gian và chi phí. Việt Nam đã lựa chọn điều khoản này để bảo lưu Điều 33.
3. Một nước tuy đã ra tuyên bố về quy định ở khoản 2 có thể, vào bất kỳ lúc nào, rút lại tuyên bố đó bằng cách gửi thông báo cho Tổng giám đốc.Đây chính là cơ chế rút sự bảo lưu khi có đủ điều kiện.
3, Nguyên nhân Việt Nam bảo lưu Điều 33 Công Ước:
Nếu thực thi điều 33 công ước đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ phải chịu áp lực rất lớn trong vấn đề bảo họ bản quyền vì cơ chết giải quyết được nêu tại Điều 33 dựa vào Tòa Án Công Lý Quốc Tế có tính bắt buộc, hơn nữa, việc giải quyết thong qua con đường này vô cùng phức tạp và tốn kém. Chính vì vậy, việc bảo lưu Điều 33 của Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Một là, do pháp luật Việt Nam quy định về quyền tác giả chưa được hoàn thiện.Thời điểm khi Việt Nam đặt vấn đề cũng như khi chính thức gia nhập công ước Berne vào năm 2004, thời điểm này, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản luật chính thức nào quy định về bảo vệ tác quyền. Phải sau thời điểm gia nhập Việt Nam mới xây dựng một hệ thống pháp luật về tác quyền mà cụ thể là Luật sở hữu trí tuệ 2005. Chính vì chưa có luật, mà nếu thực thi Điều 33 sẽ dẫn tới tình trạng: lung tung, thiếu căn cứ trong các tranh chấp quốc tế về tác quyền, và bất lợi cho phía chủ thể Việt Nam.
Hai là, Sự hiểu biết của xã hội đối với vẫn đề quyền bảo hộ của tác giả còn hạn chế. Đây là một thực tráng đáng báo động ở Việt Nam.
Ngay bản than các tác giả cũng có nhận thức về vấn đề này còn rất nhiều hạn chế, quan niệm coi trọng danh tiếng, coi thường việc bảo v...
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top