lovely_bear199

New Member
Nếu dương vật chỉ bị cong khi cương, nếu cong nhiều thì đi tiểu có thể khó khăn khi dương vật đang cương (hay gặp vào buổi sáng sớm, mới ngủ dậy). Về chức năng giao hợp thì thẳng tốt hơn cong, nhưng nếu cong dưới 30 độ vẫn không sao. Cong trên số đó thì nên chữa. Nên chứ không phải bắt buộc nếu vẫn quan hệ được.
 
Có thể chữa dương vật cong bằng cách phẫu thuật khâu ghì ngược hướng cong thì dương vật thẳng lại. Phẫu thuật tương đối đơn giản, không quá 30 phút, và hiệu quả chữa cong tốt. Dù cong hay thẳng, mổ rồi hay chưa mổ sửa cong... nếu giao hợp được là có con được, cho dù chỉ đụng "mé mé" bên ngoài.
 
Bạn nên đến khám ở bệnh viện chuyên khoa để tự tư vấn nhé. không hết nhiều tiền đâu bạn ạ.

 
 

Cranleah

New Member
Không ai lưu ý vấn đề này – ngoại trừ chính bạn và người phối ngẫu của bạn. Đó là những khó chịu và đau đớn khi quan hệ tình dục. Bạn sẽ rất dễ căng thẳng và cáu kỉnh hơn vì vấn đề này.
 
Vẹo dương vật (VDV) là một dạng rối loạn sinh dục ít gặp, gây ra tình trạng cong dương vật  (DV) trong quá trình cương cứng. Bệnh đặc trưng bởi những lớp hay mảng mô sợi (mô sẹo) thường hình thành và phát triển dưới da mặt trên hay dưới của DV. Khi DV cương cứng, mô sẹo không đàn hồi được sẽ kéo những vùng mô bình thường chung quanh làm lệch vẹo và cong DV. Những mô sợi này được hình thành từ những lớp dày mô cương và là một bệnh lành tính (không phải ung thư).
 
Bệnh VDV có tần suất khoảng 1% trong nam giới, thường gặp nhất trong độ tuổi 40-60, đôi khi ở tuổi trẻ hơn hay lớn hơn. Từ khi xuất hiện thuốc Sildenafil (Viagra) và các thuốc điều trị sự rối loạn dương cương nhằm giúp những người đàn ông lớn tuổi trong quan hệ tình dục, số lượng các trường hợp bị VDV cũng được báo cáo ngày càng nhiều hơn.
 
Bác sĩ ngoại khoa người Pháp Francois de la Peyronie là người đầu tiên mô tả bệnh VDV năm 1743, nên bệnh này được đặt tên là bệnh Peyronie. Ban đầu người ta xếp loại nó vào nhóm bệnh rối loạn dương cương do làm biến dạng DV khi cương và có thể ảnh hưởng xấu đến quan hệ tình dục, nhưng ngày nay người ta đã phân biệt rõ hai bệnh này.
 
Dấu hiệu và triệu chứng
Các triệu chứng của bệnh VDV có thể xuất hiện rất nhanh chóng hay từ từ tùy trường hợp. Có thể gồm:

Cương DV kèm đau


Vẹo hay biến dạng DV khi cương


Viêm dưới da DV vùng quanh mô sẹo cứng


Các dải dày hay mô cứng ở một hay nhiều mặt của DV


Đường kính DV bị hẹp đi khi cương


Giảm khả năng cương DV (loạn dương cương)

 
Mô sẹo hình thành ở đầu DV sẽ làm DV vẹo lên trên. Mô sẹo ở mặt dưới sẽ làm DV vẹo xuống. Hiếm hơn, mô sẹo có thể ở các mặt bên và làm DV bị lồi lõm, gây ngắn DV khi cương.
Trong nhiều trường hợp, triệu chứng đau do VDV giảm đi sau một thời gian ngắn. Tuy nhiên DV vẫn có thể tiếp tục bị biến dạng cho dù đau giảm.
 
Nguyên nhân
Nguyên nhân VDV hiện còn nhiều điều chưa rõ ràng. Có một số giả thuyết sau:
 

Chấn thương DV. Những tổn thương DV do dập, bẻ, vẹo bất thường trong khi cương hay trong quá trình giao hợp có thể gây một số vết rách trong mô, các mạch máu nhỏ có thể bị rách, đứt bên trong gây những chỗ xuất huyết nội mô. Sự lành sẹo bất thường có thể làm hình thành những mảng dày, cứng bên dưới da DV. Đối với những tổn thương không thể lành sau 1 năm, mô sợ sẽ bắt đầu hình thành hay gây lắng đọng canxi ở các mảng này.


Rối loạn tự miễn. Một số nghiên cứu lại cho rằng VDV có lẽ do rối loạn tự miễn. Hệ miễn dịch của người bệnh có những đáp ứng bất thường và tạo nên các mảng trong DV. Tuy nhiên VDV không liên quan với các bệnh tự miễn khác như viêm khớp dạng thấp hay bệnh Lupus.


Bất thường collagen. Bệnh VDV có thể do các bất thường của mô liên kết và cấu trúc (collagen)


Thuốc. Một số thuốc có tác dụng phụ có thể dẫn đến VDV. Hấu hết là thuốc hạ áp thuộc nhóm ức chế thụ thể beta (beta-blocker). Các thuốc ức chế beta khác dùng điều trị glaucoma (tăng nhãn áp), xơ cứng rải rác và tai biến. Tuy nhiên tác dụng phụ này rất hiếm.

Yếu tố nguy cơ
VDV là một bệnh tương đối ít phổ biến. Các yếu tố sau có thể làm cho bạn tăng nguy cơ mắc bệnh này:

Tuổi. Thường trong khoảng 40-60, tuy nhiên cũng có thể xảy ra ở người trẻ hay lớn tuổi hơn. Tuổi tác làm giảm độ mềm dẻo và đàn hồi của DV, tăng nguy cơ bị chấn thương và hình thành mảng mô xơ.


Yếu tố di truyền


Các yếu tố khác có liên quan đến mô cứng. Khoảng 30% người đàn ông bệnh VDV cũng có những mô chai cứng ở các vùng khác trên thân thể, như tay, chân.

 
Khi nào bạn nên thăm khám ở bác sĩ?
Khi bạn không thể quan hệ tình dục được do quá đau hay vẹo DV khi cương. Các thuốc điều trị thường giúp bạn vẫn duy trì được quan hệ sinh lý bình thường này. Tư vấn, hướng dẫn và tìm hiểu sớm về bệnh sẽ rất có ích cho bạn trong việc kiểm soát hữu hiệu các triệu chứng.
 
Điều trị
Do VDV rất khác nhau giữa các bệnh nhân, và một số bệnh nhân tự cải thiện sau một thời gian mà không cần điều trị gì, nên các bạn sĩ đầu tiên thường khuyên bệnh nhân nên chờ đợi và quan sát, thời gian theo dõi khoảng 9-12 tháng chủ yếu để quan sát sự hình thành mô xơ cứng, sự tiến triển của co vẹo cũng như chức năng cương của DV trước khi cố gắng điều trị. Một số biện pháp điều trị (bao gồm phẫu thuật và không phẫu thuật) có thể làm tăng nguy cơ bị loạn dương cương.
 
Các biện pháp không phẫu thuật
Nếu sau một thời gian chờ đợi không điều trị mà không có cải thiện, bác sĩ sẽ có thể dùng một trong các thuốc sau:

Vitamin E. Các chuyên gia đã có nhiều báo cáo rằng, việc uống vitamin E có thể làm cải thiện các triệu chứng của VDV. Tuy nhiên còn chưa có nhiều nghiên cứu chuẩn mực chứng minh điều này. Cũng tương tự cho para-aminobenzoate, một chất thuộc dòng họ các vitamin nhóm B.


Tiêm thuốc vào trong sang thương. Các thuốc dùng để tiêm trực tiếp vào mô sẹo có thể là collagenase, verapamil, hay các thuốc ức chế kênh canxi. Các thuốc này làm phá vỡ mô sẹo và phục hồi bởi mô bình thường. Tỷ lệ thành công rất thay đổi, tùy mỗi bệnh nhân. Các thuốc này, nhất là steroid (cortisone) có thể có những tác dụng phụ nguy hại cho mô bình thường xung quanh.

 
Phẫu thuật
Áp dụng khi các biện pháp trên không hiệu quả. Chỉ định phẫu thuật khi VDV gây đau nhiều trong khi giao hợp, giảm khả năng cương trong nhiều tháng. Thường phẫu thuật có tác dụng tốt để phục hồi mô cương bình thường, tuy nhiên mỗi phương pháp có một tỷ lệ tai biến cũng như hạn chế khác nhau.
 
Các phương pháp phẫu thuật thường gồm:

Đoạn mảng cứng


Phẫu thuật Nesbit


Ghép tĩnh mạch nông


Ghép DV
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top