daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)

DẪN NHẬP
1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong
ngôn ngữ, nó bao gồm: ĐÂ và ĐN trong từ, ĐÂ và ĐN trong ngữ, ĐÂ và ĐN
trong câu. Trong đó, ĐÂ và ĐN trong từ là HT phổ biến nhất. Với tư cách là trung
tâm của HTĐÂ và HTĐN, từ ĐÂ và từ ĐN đã được bàn đến từ khá sớm. Tuy vậy,
cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giớ i nghiên cứ u . Những công
trình khảo sát về từ ĐÂ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều
hướng và mỗi hướng tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong
một hướng tiếp cận thì những đặc điểm, những khía cạnh liên quan đến từ ĐÂ và
từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau giữa các tác giả.
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường
hướng tiếp cận và mức độ khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tá c giả đã cố gắ ng
xác định các tiêu chí nhận diệnĐÂ từ , từ ĐN, đề xuất các hướng miêu,tpảhân loạ ichúng.
Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ. Tuy nhiên, chưa
có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của
mình, đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG)
với những từ ĐÂKG nghĩa (ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới.
Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ
ĐN, sự khác biệt giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có
quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ
có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tui xác định: đối tượng nghiên cứu
chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối chiếu nó
với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm
ra những chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng
chọn đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).
Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ ĐÂ và từ ĐN nói
chung mà sẽ còn tập trung nghiên cứu từ ĐÂ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và
ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ
được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng làm rõ được vị trí, vai
trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và
ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy
được những điểm giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN,
từ ĐÂ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong THHĐ để tìm ra
những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới
trong một số tự vị do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ
viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:
Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn
tự điển tường giải đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng
ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì:
“Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc âm tự vị đã phân biệt được các
đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình này chúng
tui còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá
trình phân li ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài…
Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới
HTĐÂ của TV với việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ
khó viết hay những chữ ĐÂ cùng những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu
hỏi hay dấu ngã, hay viết d hay g ở trước, c hay là t, có g hay là không có g ở
sau”. Khảo sát công trình này chúng tui thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai phần
(1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm
thu thập những ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc
Ấn Âu không được thu thập và giải thích trong công trình này. Mặc dù tác giả
không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích, sắp xếp của tác giả, ta
vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác
nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn
Văn Mai mới chỉ thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí
thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn
ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song bước đầu cũng đã gợi mở ra
một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ thuần
Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn
tiết.… Đó là những đóng góp không thể phủ nhận.
Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam
quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân
biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá
rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán để phân biệt. Nghĩa của các
ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều có ví dụ
minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số
La Mã. Sau cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn,
loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải thích và sắp xếp như sau:
A. I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc:
Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.
II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…)
Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình
này vẫn còn bỏ sót những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ
giữa những ĐV thuần Việt với những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu…
Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây
là một bộ TĐ có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích,
phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán Việt từ điển chúng tui thấy: Hán Việt từ điển
đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt, xử lí các ĐVĐÂ Hán và
Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các ĐVĐÂ
có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các
ĐVĐÂ đó cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là
DAO được ông phân tách thành 07 mục từ nhỏ như sau:
Dao 摇 Lay động.
Dao 遥 Xa.
Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.
Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.
Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được.
Dao 徭 Xch. Dao dịch.
Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước
tàu… (Hán Việt từ điển, tr. 197-198)
Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN
được tác giả bàn đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần
Lược khảo về từ chương (tr.139). Theo tác giả thì: “ĐÂ nghĩa là đọc giống nhau.
Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè – Nước Việt Nam – Nước cờ là
những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.
Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm
trong Việt Nam văn phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì
trong chương I Những điều khái lược (tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là
những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là
những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái nghĩa thì
khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ
có vua quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng
năm là nói khoảng thời gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số
đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).
Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ:
“những tiếng ĐÂ ấy nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví
dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明, chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ minh
là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề thì viết chữ 盟, chữ minh
là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết chữ 鸣”.Theo
họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc
- ngữ thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu
tiếng minh có sáu nghĩa riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu
nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19).
Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có
năm cái dấu giọng có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm
tuy đúng, song khi gặp những tiếng đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra
người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân - biệt những nghĩa khác
nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III).
Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm
lưu ‎ý. Ở giai đoạn này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công
trình có tính lí luận, những công trình tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình
dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số học giả nên thành tựu
nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN trong
TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái
khó của việc phân biệt những ĐVĐÂ thuần Việt và những ĐVĐÂ gốc Hán khi
không có chữ Hán chú kèm, (2) HTĐÂ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3)
việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột giữa các loại văn tự đã và đang
được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận diện các
ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách
phát âm vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐÂ với những ĐVĐN...
Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các
nhà Việt ngữ học. Khảo sát những công trình này chúng tui nhận thấy, trong khi
các học giả phía Nam vẫn tuân theo tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp
phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả phía Bắc lại có xu thế
nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này phần
lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú‎ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến
bộ hơn Nguyễn Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược
điểm, những bất cập của chữ Quốc ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của
ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh đối chiếu và chọn mẫu
trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tui đối chiếu các tự
điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và
thống - nhứt văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những
cải tiến, sáng tạo hơn về phương pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương
pháp sắp xếp các ĐVĐÂ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi một đầu mục từ hay sau
mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay hình
vị ĐÂ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị ĐÂ được cho vào
ngoặc đơn để phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê
những kết hợp từ có chứa hình vị được giải thích. Ví dụ:
Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ;
ái tình ; bác ái ; bể ái ; luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3
Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09).
Nghĩa của các từ hay các hình vị ĐÂ được thống kê và giải thích trong
Đồng âm vận tuyển khá rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo
thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ được đưa ra giải thích còn có phần
Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những hình vị được giải
thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được
đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát
nhằm mục đích giúp người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và
áng được tác giả phân biệt như sau:
“Án binh, hương án, án quan
Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10).
Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm
vận tuyển còn thu thập, giải thích cả những hình vị ĐÂ gốc Pháp.
Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công
trình này vẫn bộc lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp
nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của
hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó nghĩa của hình vị bạch
trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị này
ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn,
không có của cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27).
Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn Tập đã đem tất cả các ĐVĐÂ mà ngày nay
được dán nhãn là “ĐÂ được cấu tạo theo kiểu chuyển loại” như: cuốc (dt) <->
cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tự- điển
Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34).
Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ ĐÂ của Hoàng
Phê [104, tr.3-18]. Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ ĐÂ là
một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều
nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển phổ thông, nếu quan hệ
giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”.
Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải
thích nghĩa của các ĐV từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan
điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối với các ĐVĐN. Đây là một công trình
thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này.
Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những
khó khăn của việc biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn
trong việc giải thích nghĩa của từ TV và khẳng định: “điều quan trọng nhất là
tính hệ thống trong cách làm việc”.
Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những
quyển từ điển của ta trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời
rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở
cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không thể giúp cho
người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng
từ vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở
cách giải thích các nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó
là “người đọc từ cách giải thích đó thường không thấy được mối quan hệ giữa
các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ ĐÂ và tách nghĩa của từ với
những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong trường
hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01
hay 02 nghĩa. Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm
hai từ nhưng ở một từ khác tương tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ
băng, đèn, bay.
Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách
nghĩa của từ, các nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển.
Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03 tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau:
hiệu ngôn ngữ. Điều này làm cho kí tín hiệu ngôn ngữ trong tiếng Hán đỡ võ
đoán hơn các kí tín hiệu ngôn ngữ trong TV. Đây cũng là kết luận chung trong
nhiều công trình viết về tín hiệu học, văn tự học, ngữ nghĩa học, từ vựng học trên
thế giới và ở Việt Nam: Saussure (1973; tr 69), Cao Xuân Hạo (2001), Nguyễn
Văn Khang (2007)…
KẾT LUẬN
HTĐÂ,ĐN trong ngôn ngữ cũng như HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN trong TV,
THHĐ là một vấn đề lớn mà phạm vi của một LA cũng như khả năng có hạn của
người viết sẽ không thể nào bao quát đầy đủ được. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực của
mình, chúng tui cũng đã tiếp cận được một số khía cạnh cơ bản và quan trọng của
vấn đề cũng như có được một số đóng góp nhất định về số liệu và lí luận. Dưới
đây là những thuận lợi, khó khăn mà chúng tui gặp phải trong quá trình thực hiện
LA cũng như các kết quả cơ bản đã thực hiện được và những vấn đề còn tồn
đọng chưa giải quyết được liên quan tới đề tài.
1. Việc nghiên cứu HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN trong ngôn ngữ cũng như
trong TV, THHĐ đã được đề cập tới từ lâu và hiện vẫn đang được tiếp tục. Đây
là thuận lợi lớn cho chúng tôi. Trong giới Việt ngữ học, những vấn đề liên quan
tới HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN được đề cập tới từ khá sớm. Tuy nhiên, vì nhiều lí
do, HT này chưa được khảo sát có hệ thống trên cùng một khối ngữ liệu mà chỉ
được tiến hành với quy mô nhỏ và tản mạn, số liệu đã cũ do được thống kê cách
đây trên 20 năm nên đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp nữa. Tuy vậy, có
rất nhiều vấn đề có liên quan như: HT ĐÂĐH, ĐÂDH, HT ĐÂCG, HTCL, HT
ĐNBV, ĐNBN, ĐNBT, mối quan hệ giữa ngôn ngữ với chữ viết… đã được
nhiều nhà Việt ngữ học, Hán ngữ học khảo sát và đề cập tới. Đây chính là những
điều kiện quan trọng mà thiếu nó, chúng tui sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ đã
đề ra. Trên cơ sở thực tiễn sử dụng TV, thông qua việc thống kê, mô tả số liệu
của TĐTV 2006, TĐ THHĐ 2005, LA đã xác lập được một cách khá hệ thống
những đồng nhất và khác biệt giữa HTĐÂ, HTĐN cũng như sự khác biệt giữa
những ĐV ĐÂ&ĐN trong khu vực ĐÂCG với những ĐV ĐÂ&ĐN trong khu
vực ĐÂKG trong TV và THHĐ cả ở diện rộng, diện hẹp và ở một số phạm trù cơ
bản; LA đã xác lập được vị trí, vai trò của những ĐV ĐÂCG trong tổng thể từ
ĐÂ của TV, đã chứng minh được tầm quan trọng của HTCL trong TV. Cụ thể là:
1.1. Về HTĐÂ, nếu như trong THHĐ vấn đề gây nên tranh luận chỉ nằm ở
một SL nhất định các ĐV ĐÂĐH (các ĐV phân li từ những nghĩa hạng của một
ĐVĐN), còn đại bộ phận các ĐVĐÂ trong tiếng Hán đã có 3 tiêu chí hình, âm,
nghĩa ràng buộc và khu biệt thì trong TV, do việc từ bỏ chữ Hán, chữ Nôm dẫn tới
mối quan hệ giữa ba mặt hình, âm, nghĩa của gần 70% vốn từ Hán Việt và một tỷ
lệ không nhỏ từ thuần Việt hoàn toàn bị đứt đoạn, do việc xác định các đối lập cơ
bản giữa những ĐV đồng cấp độ như từ, ngữ… trong TV còn nhiều chỗ đáng phải
bàn thêm nên việc nhận diện, xác định và phân loại các ĐVĐÂ hay ĐN gặp rất
nhiều khó khăn, tạo nên nhiều khu vực có sự tròng tréo hay lưỡng khả mà những
ĐV được TĐTV 2006 dán nhãn là ĐÂ ngữ nghĩa là một ví dụ điển hình. Mặt khác,
do sự đối lập giữa những lớp từ loại của TV như: đg - tt, dt - tt… cũng là những
chỗ chưa có được những tiêu chuẩn rõ ràng nên cũng gây ra nhiều tranh luận trong
nhận diện, quy loại, phân loại và xử lý các ĐVĐÂ và ĐN trong TV. Tiếp đó là
những khó khăn không nhỏ do HTCL của các ĐV ngôn ngữ gây nên. Tiếp nữa là
việc xác định những giới hạn hay điều kiện phân li cho những ĐV vốn là những
nét nghĩa của một ĐVĐN để chúng trở thành những ĐVĐÂ với nhau cũng là
những thách thức không nhỏ… Cuối cùng phải kể đến là những khó khăn do quan
niệm hay do phương pháp xử lí khác nhau của các công trình từ điển học, từ vựng
ngữ nghĩa học. Thực tế này dẫn đến những số liệu khác nhau, không khớp nhau,
thậm chí trái ngược nhau qua các thời kỳ đã gây ra sự phân vân, thậm chí là những
ngộ nhận cho người viết. Chính những điều này đã tạo ra những khó khăn trong
nhận diện, phân loại và mô tả các ĐV ĐÂ,ĐN trong TV và tất yếu sẽ dẫn đến một
sự thật là: hay phải chấp nhận rất nhiều ngoại lệ hay vùng giao vùng mờ, hoặc
phải tìm ra những tiêu chí phân loại mới hay phải triệt để nhất quán hơn với một
chùm tiêu chí trên cùng một khối ngữ liệu.
Chọn hướng tiếp cận, phân loại các ĐVĐÂ của TV không chỉ từ tiêu chí ngữ
nghĩa đơn thuần hay từ tiêu chí nguồn gốc, LA còn kết hợp với 2 tiêu chí: SLÂT
tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ; Từ loại của các ĐVĐÂ để tiến thống kê, phân loại
và mô tả các ĐVĐÂ của TV trên một khối ngữ liệu 39.924 ĐV của TĐTV 2006.
Đây không phải là một hướng phân loại mới song được thực hiện triệt để, nhất quán
và là số liệu cập nhật nhất sau hơn 20 năm.
Từ tiêu chí phân loại thứ nhất (từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các
ĐVĐÂ), tức là xuất phát từ chính những đặc điểm cơ bản của TV (đơn lập; có
tiếng/âm tiết – từ đơn tiết - hình vị là 1 thể ba ngôi), tức là xuất phát và dựa trên
những cơ sở quan trọng của lý thuyết tín hiệu học. Từ tiêu chí này, các ĐVĐÂ
của TV được khảo sát, thống kê chi tiết tới từng loạt ĐÂ, từng ĐVĐÂ và được
mô tả chi tiết về sự phân bố của chúng qua từng khu vực và hoàn toàn có thể
kiểm tra được bằng từ điển. Từ số liệu này, tỷ lệ của các ĐVĐÂ trong kho ngữ
liệu được đánh giá cụ thể với 8408 ĐV (chiếm 21,06 % TĐTV 2006) với 3691
loạt chứ không phải bằng những con số ước lượng. Các cấu tạo tối đa của các
ĐVĐÂ cũng được thống kê và mô tả chi tiết (tối đa là 4 âm tiết). Từ số liệu này,
các ĐVĐÂ cũng như các kiểu HTĐÂ cơ bản, không cơ bản của TV cũng được
làm rõ. Đó là các ĐV có một vỏ ngữ âm ứng với 2, 3 ĐV và kiểu ĐVĐÂ đơn tiết.
Từ tiêu chí phân loại thứ hai (từ tiêu chí từ loại của các ĐVĐÂ) tức là xuất
phát từ tiêu chí ngữ pháp, tức là xuất phát từ bên ngoài, các ĐVĐÂ của TV sẽ có
3 loại là: ĐÂ cùng từ loại (với 3 tiểu loại kèm danh sách chi tiết); ĐÂ khác từ
loại (với 2 tiểu loại); và các HTĐÂ khác (với 2 tiểu loại). Điểm mạnh của 2 tiêu
chí phân loại này là có thể giải thích được toàn bộ khối ngữ liệu ĐÂ của TĐTV
2006 mà không gặp bất cứ sự cản trở hay mâu thuẫn nào.
Từ tiêu chí phân loại thứ ba (từ tiêu chí nguồn gốc của các ĐVĐÂ) tức là
xuất phát từ tiêu chí từ nguyên, các ĐVĐÂ của TV sẽ có 3 loại là: ĐÂ Hán Việt
(chiếm đa số), ĐÂ thuần Việt (chiếm tỷ lệ thứ yếu) và ĐÂ gốc Ấn Âu (chiếm tỷ
lệ ít nhất).
Từ tiêu chí ± quan hệ ngữ nghĩa, ta sẽ có 2 loại là: từ ĐÂKG (không có liên
hệ, quan hệ gì về nghĩa, chiếm tỷ lệ nhiều nhất) và từ ĐÂCG (giữa các ĐVĐÂ
vẫn còn tồn tại một mối liên hệ mơ hồ về nghĩa thông qua PTCL của từ (chiếm tỷ
lệ thứ yếu).
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top