tieuly_hihihaha

New Member

Download miễn phí Bí mật đời tư vấn đề lí luận và thực tiễn





 1. PHẦN MỞ ĐẦU

 2. NỘI DUNG

 A. PHẦN LÝ LUẬN

 I. Khái niệm “ Bí mật đời tư”

 II. Quyền đối với bí mật đời tư

 III. Một số quy định về “ Bí mật đời tư” của các quốc gia trên thế giới.

 B. THỰC TẾ

 I. Hiểu thế nào về “bí mật đời tư” liên quan đến tác nghiệp báo chí.

 II. Các vụ việc liên quan đến “ Bí mật đời tư”.

3. KẾT LUẬN

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ột khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài: “ Bí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực tiễn. ”
NỘI DUNG
A. PHẦN LÝ LUẬN
I. Khái niệm “bí mật đời tư”
Hiện nay Bộ luật dân sự nước ta đã có những quy định về quyền bảo vệ đối với bí mật đời tư. Theo đó, việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý, trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hay người thay mặt của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Quy định là vậy nhưng xem ra để xác định thế nào là “đời tư” và “bí mật đời tư” thì còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định rõ ràng về phạm vi khái niệm “Bí mật đời tư”, đồng thời cũng chưa có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm “bí mật đời tư” rõ ràng. Khái niệm “ Bí mật đời tư” là cụm từ Hán – Việt, có nguồn gốc chữ Hán và được Việt hoá. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không cho ai biết. “Tư” có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy “bí mật đời tư”là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó.
Theo Tiến sĩ Lê Thu Hà (Học Viện Tư Pháp), hiện nay Việt Nam chưa có định nghĩa về bí mật đời tư:
“Theo chúng tôi, có thể hiểu “bí mật” là những gì chưa được tiết lộ, chỉ một hay một số người nào đó biết, còn “đời tư’ là những gì liên quan đến sinh hoạt riêng tư của cá nhân nào đó mà người đó không muốn nhiều người biết (tặng bồ tiền, ngoại tình, tình trạng hôn nhân, sự dịch chuyển tài sản, di chúc thừa kế hay đơn giản là ai hay lui tới nhà …).
Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ trước tới nay, chúng tui cũng nhận thấy, chưa có bất kỳ một quy định nào “giải thích” thế nào là bí mật đời tư và danh mục bí mật đời tư.
Theo chúng tôi, “bí mật đời tư” là những thông tin mà chỉ cá nhân người đó hay một số người thân thích biết được về cuộc sống riêng của mình mà họ không muốn tiết lộ cho nhiều người. ”
Tiến sĩ Lê Thu Hà cho rằng tất cả những điều về cá nhân người đó như nhân thân, tài sản, kể cả tài sản riêng tư mà người đó có được do hoạt động hợp pháp, pháp luật không bắt buộc họ phải công khai thì đó được xác định là bí mật đời tư của họ.
Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, bí mật đời tư có thể hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hay những người thân thích, những người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài với bất kì ai. “Bí mật đời tư” có thể được hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. VD: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín. v. v. .
II. Quyền đối với “Bí mật đời tư”
Theo điều 24 Bộ luật dân sự thì, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Vẫn theo Bộ luật dân sự thì, quyền về nhân thân bao gồm: quyền đối với họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền khai sinh, khai tử, quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm … Trong đó, quyền về bí mật đời tư cũng là một quyền về nhân thân.
Xin đơn cử một ví dụ: quyền về hình ảnh rõ ràng là quyền của nhân thân, tuy nhiên chỉ những hình ảnh “nóng” ghi lại sinh hoạt riêng tư của cá nhân bị người khác “trưng” ra cho công chúng thì mới bị coi là xâm phạm bí mật đời tư…
Cũng có trường hợp Bộ luật dân sự quy định một cách rõ ràng, chẳng hạn như bí mật thư tín, điện tín. Chẳng hạn như nếu vợ (hay chồng) vì ghen tuông mà nghe lén, ghi âm điện thoại, điện báo, đọc tin nhắn của người bạn đời mình cũng được coi là hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, nếu như vì vợ (hay chồng) nói quá to mà người bên cạnh nghe được thì khó có thể coi là xâm phạm …
Theo thông tư số 09/2005/TT - BCA ngày 05. 09. 2005: “Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 38/2005/NĐ - CP ngày 18. 03. 2005 của chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng”, nơi công cộng là các khu vực, địa điểm phục vụ chung cho mọi người như vỉa hè, lòng đường, quảng trường, cơ sở kinh tế, văn hoá, nơi sinh hoạt cộng đồng; tại khu vực trụ sở cơ quan Nhà nước, tổ choc chính trị - xã hội hay tại những nơi được trưng dụng để phục vụ cho nhiều người: trong một thời gian nhất định ( nơi tổ chức hội chợ, triển lãm …) hay khu thể thao (sân bóng, sân quần vợt, chợ nổi …)
Như vậy những gì cá nhân phô diễn ra nơi công cộng thì không còn gọi là bí mật đời tư nữa và những gì cá nhân khác có quyền về nơi công cộng ấy bình đẳng như nhau. Ví dụ: hình ảnh một cá nhân nào đó ( chop tại nhà hay studio) muốn đăng báo, phát hành phải xin phép cá nhân đó. Nhưng nếu ai đó đang tham gia phiên toà, chop hình chung nhiều người (bị cáo, nguyên đơn, bị đơn, hội đồng xét xử, người dự khán … ) thì những hình ảnh đấy không còn bí mật đời tư nữa mà là hình ảnh về sinh hoạt cộng đồng, tác giả bức ảnh đấy có quyền sử dụng mà không cần xin phép những người có mặt trong ảnh. Tương tự, hôn nhân và gia đình là chuyện riêng tư của cá nhân với nhau, nhưng đã đem những chuyện riêng tư ấy trình bày trước phiên toà công khai thì những lời ấy không còn là bí mật đời tư nữa, và nó đã được chính những người trong cuộc tự nguyện công khai hoá cho nên, không có cái bí mật đời tư “chung chung” mà bí mật đời tư phải được cụ thể trong từng trường hợp rõ ràng. Công dân muốn pháp luật bảo vệ quyền về bí mật đời tư thì công dân đó phải có nghĩa vụ chứng minh bí mật đó thuộc về cá nhân người đó mag chưa từng công bố, công khai ở nơi công cộng.
Pháp luật Việt Nam đã quy định một số quyền đối với bí mật đời tư:
- Hiến pháp năm 1946, Điều 11:
Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ, giam cầm công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
- Hiến pháp năm 1959, điều 28:
Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không bị xâm phạm, thư tín được gĩư bí mật.
Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do cư trú và đi lại.
- Hiến pháp năm 1980, Điều 70, 71:
Điều 70: Công dân có quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm.
Điều 71: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp...

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top