daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MEN KẾT TINH 3
1. Lịch sử men kết tinh 3
2. Men kết tinh là gì? 7
3. Ứng dụng của men kết tinh: 9
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH KẾT TINH 10
2.1 Cơ chế kết tinh: 10
2.2 Quá trình kết tinh: 10
CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH KẾT TINH 12
3.1 Thành phần hóa và hàm lượng: 12
3.1.1 Thành phần hóa: 12
3.1.2 Hàm lượng các oxyt: 13
3.2 Độ nhớt: 13
3.3 Nhiệt độ tạo mầm và phát triển tinh thể: 14
3.4 Quá trình nung 14
3.4.1 Nhiệt độ nung và thời gian lưu 14
3.4.2 Môi trường khí 15
3.5 Hình dạng sản phẩm 15
CHƯƠNG 4: CÁC SAI SÓT, KHUYẾT TẬT TRONG QUÁ TRÌNH KẾT TINH 16
4.1 Không xuất hiện tinh thể: 16
4.2 Tráng men quá mỏng hay quá dày: 16
4.3 Nhiệt độ nung thấp: 17
5.1 Phương pháp dò tìm: 18
5.2 Phương pháp đa nhiệt: 18
5.4 Phương pháp nhiễu xạ Rơnghen: 20
5.4.1 Nguyên lý chung phương pháp nhiễu xạ Rơnghen 20
5.4.2 Phân tích theo phương pháp Debai - Serek 20
CHƯƠNG 6: MỘT SỐ HOA VĂN VÀ SẢN PHẨM MEN KẾT TINH 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

LỜI MỞ ĐẦU

  
Từ lâu, men kết tinh (crystallyzation glazes) đã được thế giới biết đến, yêu thích và được ứng dụng nhiều trong gốm sứ mỹ thuật. Những tinh thể kết tinh từ pha thủy tinh của loại men này có hình dạng và màu sắc phong phú, nhờ vậy, sản phẩm có tráng men kết tinh được trang trí tạo nên một vẻ đẹp tự nhiên, riêng biệt cho từng sản phẩm mà không cần trợ giúp của con người. Tuy nhiên, để sản xuất men kết tinh, ta cần có một chế độ nhiệt thích hợp, đây được xem là yếu tố kỹ thuật quan trọng nhất, vì vậy, men kết tinh được xem là loại men khó làm.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MEN KẾT TINH
1. Lịch sử men kết tinh
Trung Quốc được xem là nước khám phá ra đồ sứ đầu tiên. Cao lanh trắng hay đất sét trắng được tìm thấy ở Trung Quốc nhiều và tốt hơn so với những nơi khác. Và với việc thêm chúng vào đất sét một cách thích hợp, trình độ đạt đến nhiệt độ cao hơn đối lò của họ, đồ sứ Trung Quốc trở nên tinh vi hơn và có thể tráng men theo yêu cầu.
 Sự phát triển của men kết tinh ở châu Âu.
Ứng dụng của đồ sứ ở Châu Âu không có cho đến khi có sự khám phá ra cao lanh ở gần Alencon và Limoges, Pháp vào 1768. Châu Âu được biết đến vào khoảng thế kỷ 19 bởi loại men có hàm lượng ZnO cao, sau khi nung xuất hiện tinh thể. Những tinh thể này được xem như sự tình cờ của quá trình nung và tạo ra sự hấp dẫn. Bởi vì hầu hết các sản phẩm gốm sứ vào những năm 1800 được trang trí những hình ảnh thiên nhiên.
Men từ phương Đông đã được các công ty sản xuất đồ sứ lớn xuyên châu Âu ứng
dụng. Men kết tinh, với sự đa dạng phong phú về màu sắc, tinh xảo, xuất hiện tình cờ, thích hợp hơn với các đường nét tự nhiên và lôi cuốn của phong cách mỹ thuật Nouveau. Người ta đã bắt đầu thử nghiệm đối với men kết tinh.
Năm 1800, Alexandre Brongniart trở thành người quản lý của nhà máy gốm sứ quốc gia Sevres của Pháp, nơi mà ông thành công trong sản xuất gốm nặng lửa. Alexandre ở Sevres cho đến khi qua đời vào năm 1847 và người kế nhiệm là Ebelman, lãnh đạo nhà máy từ 18471852. Trong năm 1850, Ebelman thử nghiệm và sản xuất một vài men kết tinh. Ebelman rời khỏi nhà máy vào 1852 và trong ba năm kế tiếp theo có sự phát triển nhỏ của men kết tinh.
Vào ngày 19/9/1885, hai nhà hoá học Charles Lauth và G.Dutailly ở nhà máy tặng
một cái tách men kết tinh cho phòng trưng bày của nhà máy. Tuy nhiên nhà máy
Sevres không bắt đầu sản xuất men kết tinh cho đến 1897. Taxile Doat gia nhập nhà máy ở Sevres vào 1879 và làm việc ở lĩnh vực trang trí nhưng cũng đã từng có kinh nghiệm với men kết tinh. Doat rời Sevres vào 1905, di cư đến Mỹ vào 1907 và làm việc tại trường đại học gốm sứ ở St Louis Missouri.
Khi Lauth và Sutailly khám phá ra tinh thể kết tinh trong men, tinh thể này được
hình thành từ kẽm silicat và titan đioxit, họ không chọn để phát triển sản xuất. Thay
vào đó, họ đưa ra lời thông báo và cách để tránh những vấn đề này.
Nhà hoá học Adolphe Clement thuộc nhà máy Royal Copenhagen ở Denmark lưu
ý đến lời thông báo và bắt đầu các thí nghiệm. Vào 1886, ông gửi một số mẫu của tinh thể thành công đến viện bảo tàng khoáng vật học của thành phố. Vào 1892, bảy năm sau khi Royal Copenhagen ra đi, ông công bố các kết quả về men kết tinh trong một bài báo cáo tại đại hội hoá học ứng dụng ở Vienna.
Nhà máy gốm sứ Royal (Berlin) là nơi đầu tiên đưa ra thị trường men kết tinh. Người kế nghiệp của Clement ở Copenhagen từ 1891 là một nhà hóa học tên Valdemar Engelhardt, ứng dụng men vào lĩnh vực nghệ thuật. Dưới thời của Engelhardt, các men này đã được biết đến trên thị trường thế giới. Chúng được chú ý nhiều tại triển lãm Chicago năm 1893. Tại Berlin, học viện nghiên cứu hoá học Techno xáp nhập với nhà máy gốm sứ Royal vào 1878. Albert Heineche lãnh đạo học viện từ 1888 . 1914, đã bắt đầu tập trung vào men kết tinh vào những năm 1898. Cũng vào thời gian đó, Wilhelm Pukall, một nhà hoá học từ nhà máy gốm sứ Royalf,cũng là người lãnh đạo trường cao đẳng gốm sứ Royal công bố các kết quả về men kết tinh vào 1908. Trong lúc đó, ở Meissen, Đức, lần đầu tiên vào 1898, men kết tinh được sản xuất và trưng bày ở triển lãm 1900 của Paris. Cũng vào cuối thế kỷ, nhà máy gốm sứ Rostrand ở Thụy Điển bắt đầu tạo ra những sản phẩm sứ và đồ đất nung được tráng men kết tinh.
Ở Anh, do sự hiểu biết về men kết tinh trở nên phổ biến, rộng rãi hơn, công ty Royal Doulton, và công ty gạch ngói và gốm sứ Pilkington ở Great Britain bắt đầu làm thí nghiệm với men kết tinh. Pilkington phát triển một vài dòng men kết tinh, một trong chúng là tinh thể Starry - được gọi như vậy bởi vì hình dạng có nhiều cạnh nhọn của những tinh thể nhỏ - và tinh thể Opalescent trắng đục như sữa với những cụm của những tinh thể matt nhỏ. Mặc dù với những đổi mới đó, nhưng công ty Pilkington trở nên nổi tiếng hơn nhờ vào men aventurin, nhiệt độ thấp hơn men matt với những đốm tinh thể nhỏ lơ lửng bên trong men. Các loại men này dễ điều khiển hơn và vì vậy cũng có thể làm được ở quy mô lớn hơn.
Royal Doulton đã sớm được biết đến trên thế giơi bởi sự thành công nổi bật về men kết tinh. Tại triển lãm Brussels 1910, các mẫu được bán chỉ trong vòng vài giờ mở cửa. Họ sử dụng xương sứ nhiệt độ cao nung ở 25500C ( 14000F ) và phát triển men kết tinh với các tinh thể to hơn, đơn lẻ lơ lửng trong men nền. Do sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ nhất, Doulton ngừng sản xuất men kết tinh vì chúng quá đắt và kỹ thuật thì không thể dự báo trước.
Vào 1901, họ đã phát triển các tinh thể ngũ sắc nhỏ và họ trở thành nơi làm đồ gốm mỹ nghệ đầu tiên ở Bắc Mỹ thành công khi tạo ra các tinh thể to, sớm hơn cả Châu Âu, vì vậy sự kiện này đã có trước khi sản phẩm của Châu Âu trưng bày ở St Louis Exposition vào 1904. Mặc dù men kết tinh đã được đưa vào sản xuất cho thương mại nhưng quá trình sản xuất loại sản phẩm này thì quá đắt và được đánh giá rằng kết quả là không thể đoán trước.
 Hai thời kỳ của men kết tinh
Câu chuyện của men kết tinh có thể được phân chia thành hai giai đoạn rất khác nhau, mỗi giai đoạn điển hình bởi sự phát triển quan trọnng. Hai thời kỳ vàng trở thành thuật ngữ phổ biến. Thời kỳ đầu từ 1850 đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 1918). Thời kỳ thứ hai từ 1960 đến nay.
Giai đoạn sớm hơn thì được quan tâm chủ yếu về các ấm, bình , lọ kết tinh được sản xuất bởi các nhà máy lớn xuyên Châu Âu và Mỹ. Đặt biệt ở Mỹ, nhiều nhà máy cũng bị ảnh hưởng bởi xu hướng nghệ thuật và thủ công. Đó là xu hướng thẩm mỹ được sáng lập bởi Morris, xu hướng này nhấn mạnh sự quan trọng của nghề thủ công và giá trị của sức lao động.
Hầu hết những nhà máy này làm thí nghiệm với ý định nghiêm túc với men kết tinh. Những sản phẩm này thường chiếm tỉ lệ nhỏ trong sản xuất của họ bởi hai lý do. Đầu tiên, các chậu bình men kết tinh đã và đang khó khăn để chế tạo và khó để có một bản sao. Thứ hai, các tinh thể phát triển tốt nhất ở các kiểu đơn lẻ, không thể sản xuất với quy mô lớn.
Ở thời kỳ thứ hai, giai đoạn mà tiếp tục cho đến nay. Những thử nghiệm được thúc đẩy to lớn bởi các khám phá ở Châu Âu với mong ước cạnh tranh với một vài tính chất nổi tiếng của gốm sứ Trung Quốc. Vào thế kỷ mười tám, có vô số thử nghiệm trên đồ sứ mới chủ yếu cho nhiều loại men kết tinh. Khi các đồ sứ men kết tinh ngày càng trở nên thành công, chúng thúc đẩy sự cố gắng nỗ lực tái lập lại các nhà máy lớn và nhỏ trên toàn bán cầu Tây.

.3 Phương pháp phân tích nhiệt vi sai DTA:
Đây là phương pháp phân tích pha được sử dụng để nghiên cứu các quá trình biến đổi hóa lý, những hiệu ứng nhiệt của vật chất có hoạt tính nhiệt. Từ đó, xác định thành phần các khoáng vật, nhận biết các khoáng vật, xác định nhiệt độ bắt đầu và nhiệt độ kết thúc của hiệu ứng nhiệt.
Cơ sở lý thuyết của phương pháp này là phương trình Furie.
Quá trình kết tinh của men là quá trình tỏa nhiệt nên có thể áp dụng phương pháp phân tích DTA tìm khoảng nhiệt độ kết tinh của men một cách nhanh chóng bằng cách chuẩn bị một mẫu men không kết tinh và một mẫu men kết tinh. Sự chênh lệch nhiệt độ của hai mẫu được thể hiện qua các peak thu được, thông qua đó có thể biết những hiệu ứng nhiệt xảy ra trong mẫu thử và dựa vào đường cong phân tích nhiệt ta biết được quá trình kết tinh và các quá trình biến đổi hóa lý khác xảy ra trong men. Từ đó, có thể dựa vào đường cong phân tích để điều chỉnh đường cong nung sao cho thích hợp với các quá trình hoá lý xảy ra trong men. Nếu đường DTA lệch khỏi đường cơ sở tạo đỉnh có chiều hướng lên trên gọi là hiệu ứng tỏa nhiệt, có chiều hướng xuống gọi là hiệu ứng thu nhiệt.
Thông thường người ta thường ghi đồng thời ba đường T (nhiệt độ), DTA, TG. Đường T cho biết hiệu ứng nhiệt xảy ra ở nhiệt độ nào, đường DTA cho biết dạng hiệu ứng nhiệt xảy ra, từ dạng hiệu ứng nhiệt ta có thể biết được các quá trình xảy ra trong mẫu như quá trình phân ly, quá trình bay hơi nước, quá trình kết tinh hay sự thay đổi cấu trúc tạo sản phẩm mới... Đường TG cho ta biết sự thay đổi khối lượng mẫu bị tăng hay giảm bao nhiêu % so với mẫu ban đầu do quá trình tách nước, phân ly khí, bay hơi, hấp phụ khí...
Tổng hợp các đồ thị T, DTA và TG trong suốt quá trình nung ta có thể biết nhiệt độ xảy ra các quá trình biến đổi trong men. Như quá trình tạo mầm và quá trình phát triển tinh thể xảy ra trong khoảng nhiệt độ nào hay nhiệt độ mà các quá trình xảy ra nhiều nhất, mạnh nhất. Từ đó, điều khiển được quá trình kết tinh men ít xảy ra khuyết tật và hư hỏng bằng cách điều khiển quá trình hạ nhiệt theo kết quả thu được từ phân tích DTA.



 Các yếu tố ảnh hưởng đến đường cong nhiệt:
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến các quá trình xảy ra trong mẫu như độ dẫn nhiệt, nhiệt dung của vật, ion tạp chất, tốc độ nung nóng, kích thước hạt (nếu mẫu ở dạng bột), khối lượng mẫu, hình dạng chén....
5.4 Phương pháp nhiễu xạ Rơnghen:
Phương pháp nhiễu xạ Rơnghen được ứng dụng để nghiên cứu cấu trúc tinh thể, xác định thành phần khoáng… Từ đó biết được tinh thể hay khoáng được hình thành sau khi nung. Sử dụng phương pháp này để xác định tinh thể được hình thành.
5.4.1 Nguyên lý chung phương pháp nhiễu xạ Rơnghen
Cơ sở lý thuyết của phương pháp là phương trình Bragg – Wulf. Giả thiết các phần tử cấu tạo tinh thể là những chất điểm. Khi chiếu chùm tia Rơnghen qua tinh thể, phần tia không gặp các phần tử cấu tạo sẽ xuyên qua, phần tia gặp các phần tử sẽ bị phản xạ, sự phản xạ này xem như phản xạ tia Rơnghen từ các mặt mạng tinh thể. Tia phản xạ này sẽ gây hiện tượng nhiễu xạ nếu thỏa mãn điều kiện phương trình Bragg – Wulf:


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top