connie_leong

New Member

Download miễn phí Bài giảng Màng tế bào và thông tin qua màng





Số lượng và các kiểu protein ở các loại màng khác nhau. Ví dụ, ở màng cô lập dây thần kinh protein ít hơn 25%, còn ở các màng liên quan đến biến đổi năng lượng (ti thể, lục lạp) có thể đến 75%. Thường trong các màng protein khoảng 50%. Lipid có phân tử lượng nhỏ nên số phân tử của nó nhiều hơn protein. Đối với tế bào có 50% protein thì khoảng 50 phân tử lipid có 1 phân tử protein. Các protein nội vi có thể xuyên qua màng một hay vài lần và thường đầu kị nước hướng vào trong màng. Các protein cũng góp phần làm thay đổi tính chất cơ học của màng.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ôi trường nuôi, chúng sẽ tự động nhận biết nhau để kết lại thành cụm tế bào : gan theo gan và thận theo thận. Sự nhận biết này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển phôi, điều hòa sự tăng trưởng và phân chia tế bào. Một hiện tượng nữa có liên quan đến sự nhận biết là ức chế khi tiếp xúc (contact inhibition) : trong nuôi tế bào, các tế bào bình thường phân chia đến khi tạo một lớp (monolayer) chạm khít nhau thì dừng. Các tế bào ung thư mất khả năng này. II. MÀNG TẾ BÀO NHÂN SƠ Màng tế bào và vách tế bào là hai cấu trúc thực hiện các chức năng vô cùng quan trọng cho tế bào nhân sơ : vận chuyển chất dinh dưỡng (màng) và duy trì áp suất thẩm thấu (vách). Điều quan trọng là các vi sinh vật hấp thu dinh dưỡng trực tiếp từ môi trường qua vách và màng tế bào. 1. Cấu trúc màng tế bào vi khuẩn thực Lớp đôi phospholipid là cấu trúc cơ bản chung của các màng sinh học. Đặc tính lớp đôi của màng thể hiện sự sắp xếp ổn định nhất của các phân tử lipid trong môi trường lỏng. Cấu trúc màng được ổn định nhờ các liên kết hydro và tương tác kị nước. Ngoài ra, các cation Mg2+ và Ca2+ tăng cường sự ổn định nhờ kết hợp với điện tích âm của phospholipid. Các lipid của màng như steroid và hopanoid làm gia tăng độ cứng của màng. Steroid không có ở màng tế bào vi khuẩn trừ các nhóm vi khuẩn metan (methanotrophic) và Mycoplasma. Các chất steroid là các phân tử tạo độ cứng, còn các acid béo thì mềm dẽo. Các phân tử hopanoid tương tự steroid hiện diện trên màng của nhiều vi khuẩn và có lẽ đóng vai trò tương tự steroid ở màng tế bào nhân thực Eukaryotae. Một hopanoid phổ biến là C30 hopanoid diplotene. Hopanoid không có ở màng tế bào vi khuẩn cổ Archaea. 2. Màng của vi khuẩn cổ Khác với lipid của Bacteria và Eukarya có các liên kết ester của acid béo gắn vào glycerol, lipid của Archaea có các liên kết ether gắn giữa glycerol với mạch nhánh kị nước của nó. Hơn nữa, lipid của Archaea không có các acid béo. Thay vào đó, các mạch bên của chúng gồm các đơn vị lặp lại là isoprene (hydrocarbon 5 C). Ngoài những khác biệt nổi bậc đó, cấu trúc màng sinh chất của Archaea nói chung giống với màng của Bacteria và Eukarya : bề mặt ưa nước bên ngoài với bên trong kị nước. Glycerol diether và glycerol tetraether là các lipid chủ yếu ở Archaea (hình 4.7). Trong tetraether, phytanyl (4 isoprene nối nhau) mạch bên của mỗi phân tử glycerol nối nhau bằng liên kết cộng hóa trị tạo màng lipid lớp đơn thay vì lớp đôi (hình 4.8). Cấu trúc màng một lớp đơn kiểu này phổ biến ở các Archaea chịu nhiệt, có thể tăng trưởng ở nhiệt độ rất cao (>100OC). Diglycerol tetraether Màng lipid đôi và màng lipid lớp đơn 3. Vách tế bào vi khuẩn Vách tế bào bao phía ngoài màng sinh chất tạo khung vững, cứng cho tế bào, duy trì hình dạng và có lẽ quan trọng hơn cả giúp chống chịu các tác nhân bất lợi, nhất là áp suất thẩm thấu của môi trường bên ngoài. Độ vững của vách tế bào có được nhờ các tính chất của peptidoglucan, một loại đại phân tử gồm 2 loại đường khác thường gắn với một peptid ngắn với 2 amino acid, chỉ có ở vách tế bào vi khuẩn. Các đường và các peptid nối nhau lại thành một đại phân tử bào toàn bô màng tế bào. Bình thường tế bào vi khuẩn không sống được nếu thiếu vách tế bào. Hệ thống phân loại của vi khuẩn dựa vào một phản ứng đặc biệt là nhuộm Gram (tên nhà khoa học Đan Mạch), mà phân biệt 2 nhóm vi khuẩn chính : Gram-dương hấp thu và giữ lại màu và Gram-âm không nhuộm màu. Kết quả dương tính hay âm tính liên quan đến cấu trúc của vách tế bào vi khuẩn Căn cứ phản ứng nhuộm Gram, lãnh giới vi khuẩn thực phân thành 3 nhóm chính : vi khuẩn Gram dương, Gram âm và Mycoplasma. Vaùch teá baøo vi khuaån Gram-döông (a) vaø Gram-aâm (b). ÔÛ nhöõng vi khuaån Gram aâm, töùc khoâng nhuoäm maøu Gram, vaùch teá baøo moûng lôùp peptidoglycan chæ khoaûng 10%. Maët ngoaøi lôùp peptidoglycan laø moät lôùp daøy chieám tæ leä 80% coù chöùa protein, lipid, lipo-polysacchrid. – Vi khuẩn Gram dương: vách tế bào dày có chứa nhiều peptidoglycan (mucopeptid hay murein) với tỉ lệ từ 80%  90% và teichoic acid. Vì vậy, vi khuẩn Gram dương có màu tím khi được nhuộm kép với fuschin và tím tinh thể. – Vi khuẩn Gram âm : vách tế bào mỏng gồm 3 lớp : màng tế bào trong cùng, lớp peptidoglucan (chỉ khoảng 10%) và lớp dày ngoài cùng (chiếm 80%) với lippoprotein và lipopolysaccharid tạo phức hợp lipid-polysaccharid. – Mycoplasma là nhóm vi khuẩn có kích thước nhỏ nhất, đặc biệt là không có vách tế bào. Chúng sống kí sinh ở cơ thể động vật, thực vật và côn trùng III. CÁC CẤU TRÚC PHÍA NGOÀI MÀNG VÀ CÁC NỐI LIÊN BÀO Trên bề mặt các tế bào nhân thực có các cấu trúc như vách tế bào thực vật, nền ngoại bào (extracellular matrix - ECM) của tế bào động vật, các nối liên bào (intercellular junctions) hỗ trợ gắn các tế bào với nhau thành những cấu trúc cấp cao hơn. Ở thực vật, nấm và vi khuẩn vách tế bào tách biệt hẳn với màng sinh chất. Vỏ của tế bào động vật không có sự tách biệt đó, được gọi là glycocalix. Các carbohydrate của nó gắn với các phân tử glycoprotein và glycolipid. Các chất này chỉ nằm ở bề mặt bên ngoài tấm lipid 2 lớp. 1. Vách tế bào thực vật Từ lâu người ta đã phát hiện vách tế bào thực vật, nấm và phần lớn vi khuẩn có vách tế bào, giàu carbohydrate phía ngoài màng sinh chất. Cấu tạo : Vách tế thực vật nằm ngoài màng sinh chất, nói chung không được coi là một phần của tế bào chất, tuy nó là sản phẩm của tế bào. Thành phần cấu trúc căn bản là phức hợp polysaccharide cellulose dưới dạng các sợi chỉ dài. Các sợi cellulose được gắn với nhau nhờ chất nền của các carbohydrate khác chủ yếu là pectin và hemicellulose. Vách tế bào có nhiều lỗ để nước, không khí và các chất hoà tan có thể qua lại tự do. Chức năng cho các chất ra vào thuộc màng sinh chất. Phần đầu tiên của vách tế bào xuất hiện khi tế bào còn non gọi là vách sơ cấp (primary wall). Nếu tế bào tiếp tục tăng trưởng chúng chỉ có vách này. Khi các vách của hai tế bào gặp nhau ở giữa chúng sẽ hình thành phiến giữa (middle lamella) gắn chúng lại với nhau. Pectin dưới dạng pectate calcium là thành phần căn bản của phiến giữa. Nếu pectin bị tan các tế bào gắn vào nhau yếu hơn. Trái cây chín mềm đi do pectin lúc đó chuyển sang dạng hoà tan. Các tế bào mô mềm của thực vật chỉ có vách sơ cấp và phiến giữa. Sau khi ngừng tăng trưởng, các tế bào lập tức hình thành vách thứ cấp (secondary wall) cứng hơn, có nhiều chất gỗ hơn và các lớp khác của vách tế bào Vách thứ cấp cũng do tế bào chất tạo ra nên nó nằm giữa vách sơ cấp và màng tế bào. Vách sơ cấp thường dày hơn thứ cấp và gồm nhiều lớp chặt chồng nhau. Các lớp sợi cellulose xếp song song với nhau và lớp này với lớp khác chéo nhau theo góc 60o - 90o. Sự sắp xếp như vậy làm tăng độ cứng của vách tế bào. Ngoài cellulose vách thứ cấp thường chứa lignin (mộc tố) làm cứng hơn. Vách tế bào của cả nấm và vi khuẩn khác với tế bào thực vật ở chỗ không phải cellulose, mà chitin mới là thành phần cấu trúc chính. Vỏ tôm cũng chứa nhiều chitin. Một phần của vách tế bào vi khuẩn còn có murein. Chức năng: Vách cellulose - pectic tạo một khung cứng giúp tế bào thực v
 
Top