Celsus

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
CHƯƠNG 1 :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH PHÂN TÍCH TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.1. Khái quát về quy trình phân tích
1.1.1. Khái niệm về quy trình phân tích
Trong quy trình kiểm toán, từ lúc chuẩn bị kiểm toán cho đến khi hoàn thành kiểm toán, phân tích luôn được đánh giá là một thủ tục kiểm toán có hiệu quả vì thời gian ít, chi phí thấp nhưng lại có thể cung cấp những bằng chứng về sự đồng bộ, hợp lý chung về các số liệu kế toán; đồng thời giúp kiểm toán viên đánh giá được những nét tổng thể và không bị sa lầy vào các nghiệp vụ cụ thể. Xuyên suốt quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, ta có thể thấy được quy trình phân tích áp dụng qua cả 3 giai đoạn : chuẩn bị kiểm bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán và hoàn thành kiểm toán. Điều này được thể hiện rõ qua các quy định có liên quan đến quy trình phân tích trong các chuẩn mực VSA 330, VSA 500, VSA 520.
Theo VSA 330 – Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro, đoạn 55 : “Quy trình phân tích cơ bản thường được áp dụng với các khoản mục gồm số lượng lớn các nghiệp vụ và có thể đoán được theo thời gian. Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư thường thích hợp trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán liên quan đến cơ sở dẫn liệu cụ thể về số dư khoản mục, bao gồm cơ sở dẫn liệu hiện hữu và các đánh giá. Trong một số trường hợp, kiểm toán viên quyết định chỉ thực hiện quy trình phân tích cũng đủ để giảm rủi ro có sai sót trọng yếu xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ: Kiểm toán viên quyết định chỉ thực hiện quy trình phân tích là đủ để xử lý rủi ro phát hiện sai sót trọng yếu của một loại nghiệp vụ nếu việc đánh giá rủi ro của kiểm toán viên được hỗ trợ thêm bằng bằng chứng kiểm toán thu thập được từ việc kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động kiểm soát. Trường hợp khác, kiểm toán viên quyết định chỉ thực hiện kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, số dư khoản mục là phù hợp, hay thực hiện phương pháp kết hợp giữa quy trình phân tích với kiểm tra chi tiết là phù hợp hơn đối với các rủi ro đã được đánh giá”
Theo VSA 500 – Bằng chứng kiểm toán, đoạn 06 : “Thử nghiệm cơ bản (kiểm tra cơ bản) : Là việc kiểm tra để thu thập bằng chứng kiểm toán liên quan đến báo cáo tài chính nhằm phát hiện ra những sai sót trọng yếu làm ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Thử nghiệm cơ bản bao gồm :
a/ Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư;
b/ Quy trình phân tích.”
Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán : trước khi lập báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải đánh giá tổng quát về các kết quả thu thập được. Công việc này nhằm soát xét lại toàn bộ quá trình kiểm toán, kết quả thu được và cân nhắc các cơ sở để đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính. Để đạt được mục đích này, kiểm toán viên thường tiến hành các thủ tục sau :
- Áp dụng các thủ tục phân tích.
- Đánh giá sự đầy đủ của bằng chứng.
- Đánh giá tổng hợp các sai sót chưa điều chỉnh.
- Rà soát lại hồ sơ kiểm toán.
Trong đó việc áp dụng các thủ tục phân tích là : “nhằm đánh giá tính đồng bộ và xác thực của các thông tin tài chính thu thập được, nhất là các số liệu kiển toán của các khoản mục trên báo cáo tài chính. Mọi diễn biến bất thường của các thông tin này so với số liệu đơn vị, số liệu kế hoạch, số liệu năm trước, số liệu bình quân trong ngành, các thông tin tài chính khác và những thông tin phi tài chính, đều cần được giải thích thấu đáo. Thủ tục này giúp kiểm toán viên xác định được những bộ phận cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán để làm vững chắc thêm ý kiến của mình. Đồng thời giúp hạn chế những thiếu sót, hay phiến diện của các thủ tục kiểm toán áp dụng cho từng bộ phận riêng lẻ.” (Giáo trình Kiểm toán, Bộ môn Kiểm toán, Khoa Kế toán – Kiểm toán, trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, 2006, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, trang 284).
Như vậy, qua các chuẩn mực và trích dẫn trên trên có thể thấy được sự thiết yếu của quy trình phân tích trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Có thể nói quy trình phân tích là một công cụ đắc lực nhằm hỗ trợ kiểm toán viên hình thành ý kiến của mình về báo cáo tài chính. Vậy “quy trình phân tích” là gì? Mục đích của nó ra sao? Người viết xin được làm rõ vấn đề này thông qua việc tìm hiểu về VSA 520 – Quy trình phân tích.
Theo VSA 520 : “Quy trình phân tích : là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hay có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến.”
Cũng theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 520 : “Quy trình phân tích bao gồm việc phân tích các tỷ số và xu hướng quan trọng như việc đánh giá kết quả của những biến động và mối quan hệ mâu thuẫn với những thông tin xác thực khác, hay phân tích những sai lệch lớn từ những số liệu có thể đoán được.”
Nhìn chung cả hai khái niệm trên không có điểm gì khác biệt, thực chất của quy trình phân tích là dựa vào những số liệu sẵn có và thông qua các kỹ thuật phân tích kiểm toán viên nhận biết được sự bất thường của từng khoản mục hay toàn bộ báo cáo tài chính để từ đó xác định được phạm vi công việc của mình.
Nội dung quy trình phân tích :
- Quy trình phân tích bao gồm so sánh các thông tin tài chính :
+ So sánh thông tin tương ứng trong kỳ này với kỳ trước : kiểm toán viên có thể so sánh số dư, hay số phát sinh tài khoản giữa các kỳ để phát hiện các tài khoản có biến động bất thường. (Ví dụ : một sự gia tăng bất thường của khoản phải thu khách hàng cuối kỳ có thể là xuất phát từ sự thay đổi chính sách bán chịu, tình trạng nợ khó đòi gia tăng hay đang có chênh lệch trọng yếu trong số dư cuối kỳ).
Kiểm toán viên cũng có thể so sánh tỷ số giữa các kỳ để phát hiện những tài khoản có thể bị sai lệch. (Ví dụ : số vòng quay của hàng tồn kho giảm đột ngột có thể phản ánh những sai lệch trong số dư hàng tồn kho, hay hàng hóa bị ứ đọng hay mất phẩm chất. Việc so sánh cũng có thể được tiến hành trên các đối tượng chi tiết của tài khoản, hay sự biến động chi tiết giữa các kỳ trong tháng, quý, năm).
+ So sánh giữa thực tế với kế hoạch của đơn vị (Ví dụ : kế hoạch sản xuất, kế hoạch bán hàng…) : việc điều tra những sai biệt lớn giữa số liệu thực tế với kế hoạch có thể cho thấy những sai lệch trong báo cáo tài chính, hay các biến động lớn trong tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị.
+ So sánh giữa thực tế với ước tính của kiểm toán viên : kiểm toán viên có thể sử dụng những thông tin có liên quan để tính toán lại số dư hay số phát sinh của một tài khoản rồi đối chiếu với sổ sách của đơn vị. (Ví dụ : chi phí khấu hao ước tính dựa vào nguyên giá, tình hình tăng giảm tài sản trong kỳ, thời gian sử dụng hữu ích của tài sản…).
+ So sánh giữa thực tế của đơn vị với các đơn vị cùng ngành có cùng quy mô hoạt động, hay với số liệu thống kê, định mức cùng ngành : về nguyên tắc, giữa một số chỉ tiêu của đơn vị và chỉ tiêu của bình quân ngành có mối liên hệ tương đồng trong một phạm vi nhất định. (Ví dụ : Tỷ lệ lãi gộp trên doanh thu, tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chính trong giá thành sản phẩm…). Việc nghiên cứu những khác biệt lớn giữa chỉ tiêu của đơn vị và chỉ tiêu bình quân ngành có thể sẽ cho biết các sai lệch, hay giúp cho kiểm toán viên hiểu biết sâu sắc hơn về hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này cần chú ý sự khác biệt về quy mô, về việc áp dụng chính sách kế toán giữa các đơn vị.
- Quy trình phân tích bao gồm xem xét các mối quan hệ :
+ Giữa các thông tin tài chính với nhau (Ví dụ : Mối quan hệ giữa lãi gộp với doanh thu…) : với phương pháp này, kiểm toán viên có thể dựa trên mối quan hệ bản chất giữa các số dư, các khoản mục trên báo cáo tài chính để đánh giá mức độ hợp lý giữa những số liệu. Kiểm toán viên cũng có thể ước tính số dư, hay số phát sinh của tài khoản qua mối quan hệ của chúng với các tài khoản khác.
+ Giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính ( Ví dụ : mối quan hệ giữa chi phí nhân công với số lượng nhân viên…) : các thông tin tài chính là những dữ liệu kinh tế, kỹ thuật do các do các hệ thống hạch toán nghiệp vụ, thống kê… cung cấp. Giữa các thông tin này và thông tin tài chính có những quan hệ nhất định, nên kiểm toán viên có thể phát hiện được những sai sót nhờ dựa trên mối quan hệ hợp lý giữa chúng với nhau. (Ví dụ : Đối chiếu giữa chi phí tiền lương và số lượng công nhân để xem mức lương bình quân có hợp lý không; so sánh giữa số tồn kho của một số loại vật tư với khả năng chứa đựng của kho hàng… Khi sử dụng những thông tin phi tài chính, kiểm toán viên cũng cần chú ý kiểm tra độ chính xác của chúng.)
Trong quá trình thực hiện quy trình phân tích, kiểm toán viên đuợc phép sử dụng nhiều phương pháp khác nhau từ việc so sánh đơn giản đến những phân tích phức tạp đòi hỏi phải sử dụng các kỹ thuật thống kê tiên tiến. Quy trình phân tích cũng được áp dụng đối với báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tài chính của đơn vị thành viên hay từng thông tin riêng lẻ của các báo cáo tài chính.
Việc lựa chọn quy trình phân tích, phương pháp và mức độ áp dụng tùy thuộc vào sự xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên.
1.1.2. Mục đích của quy trình phân tích
Quy trình phân tích được áp dụng xuyên suốt qua các giai đoạn của quá trình kiểm toán từ lúc lập kế hoạch cho đến khi hoàn thành kiểm toán, cụ thể là :
- Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, quy trình phân tích được áp dụng để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán khác. Từ đó kiểm toán viên có được sự hiểu biết về doanh nghiệp và giúp hướng công việc tới những phạm vi cần kiểm toán.
- Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, quy trình phân tích được thực hiện như là một thử nghiệm cơ bản khi việc sử dụng thủ tục này có hiệu quả hơn so với kiểm tra chi tiết trong việc giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính. Đây là một cách hiệu quả để có được báo cáo kiểm toán hỗ trợ cho ý kiến kiểm toán.
- Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán, quy trình phân tích để kiểm tra toàn bộ báo cáo tài chính khi soát xét cuối cùng của cuộc kiểm toán giúp cho kiểm toán viên có cái nhìn tổng quát về báo cáo tài chính.
Những kết luận sau quy trình phân tích có thể sẽ là những thông tin cần thiết tư vấn cho khách hàng.
1.1.3. Nguồn tài liệu phân tích
- Báo cáo tài chính các năm.
- Các thông tin quản trị : sổ sách kế toán quản trị, dự toán ngân sách, các dự báo…
- Các sổ cái và sổ chi tiết.
- Các thông tin phi tài chính : số lượng nhân viên,…
- Ngoài ra, quy trình phân tích còn sử dụng đến các thông tin như :
+ Các kế hoạch kinh doanh trong tương lai.
+ Môi trường kinh doanh.
+ Các thông tin về sản phẩm của khách hàng.
1.1.4. Các loại phương pháp phân tích
1.1.4.1. Phân tích dự báo (kiểm tra tính hợp lý)
- Phân tích dự báo là tính toán để đưa ra ước tính về một khoản mục và so sánh với số sổ sách của đơn vị. Nếu khoản chênh lệch này không hợp lý, kiểm toán viên phải tìm hiểu nguyên nhân của những chênh lệch đó.
- Phân tích dự báo bao gồm:
+ Thủ tục kiểm tra toàn diện : tổng doanh thu chia đơn giá phòng → tỷ lệ phòng cho thuê.
+ Kiểm tra chứng cứ gộp (proofs in total) : số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ có thể được xác định hay tính toán từ những thông tin độc lập và sau đó so sánh với kết quả thực tế.
Ví dụ : tồn kho đầu kỳ + nhập trong kỳ - xuất trong kỳ = tồn kho cuối kỳ, doanh thu và số lượng sản phẩm tiêu thụ có thể được đối chiếu với chi phí nguyên liệu chính tiêu hao.
- Các ước tính thường được áp dụng cho các khoản mục trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hơn là các khoản mục trên bảng cân đối kế toán vì số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là số liệu của một thời kỳ hoạt động.
- Các khoản mục có thể được ước tính như :
+ Ước tính chi phí tiền lương dựa vào số nhân viên bình quân với đơn giá lương bình quân.
+ Ước tính chi phí lãi vay dựa vào số dư nợ vay cuối kỳ với lãi suất vay bình quân.
+ Ước tính chi phí khấu hao dựa vào chi phí khấu hao kỳ trước, giá trị tài sản tăng, giảm trong kỳ…
1.1.4.2. Phân tích xu hướng
- Dựa vào sự thay đổi của một khoản mục qua các kỳ qua đó xem xét và tìm ra biến động bất thường.
Ví dụ : Khi phân tích doanh thu bán hàng trong vòng 3 năm trước, kiểm toán viên nhận tốc độ tăng của từng năm ổn định ở mức 10%, điều này cho phép kiểm toán viên đánh giá mức độ tăng doanh thu hợp lý của năm nay cũng ở mức 10%.
- Phân tích theo xu hướng bao gồm :
+ So sánh giữa kỳ này với kỳ trước.
+ Biểu đồ hiện tại và quá khứ.
+ Tỷ trọng bình quân giữa hiện tại và quá khứ.
+ Những kỹ thuật thống kê phức tạp hơn như phân tích hồi quy.
- Phân tích xu hướng có ưu điểm là dễ thực hiện, việc phân tích tập trung vào những biến động của các biến số theo thời gian đồng thời việc thu thập các thông tin để tính toán cũng đơn giản hơn so với các kỹ thuật phân tích khác.
- Phân tích xu hướng phải đảm bảo những biến động xu hướng kỳ trước có liên quan đến kỳ này tức là kỳ này không có những yếu tố bên ngoài nào khác tác động làm thay đổi đáng kể đến đối tượng cần phân tích.
- Kiểm toán viên thường sử dụng phương pháp phân tích này khi xu hướng biến động trong quá khứ là tương đối ổn định qua các kỳ vì rủi ro và sai sót có thể giảm đi so với các biến động không ổn định trong quá khứ. Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp phân tích này cũng đòi hỏi kiểm toán viên phải có kinh nghiệm cũng như sự nhạy bén trong quá trình thực hiện phân tích xu hướng.
1.1.4.3. Phân tích tỷ suất
- Phân tích tỷ suất là đánh giá mối quan hệ giữa các khoản mục trên báo cáo tài chính có hợp lý hay không. Phân tích tỷ suất được thực hiện bằng cách tính toán các tỷ số giữa các khoản mục và so sánh với các năm trước, với kế hoạch hay tỷ số bình quân ngành.
- Các tỷ số phân tích trên báo cáo tài chính bao gồm :
+ Tỷ số giữa các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Ví dụ : Tỷ số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
+ Tỷ số giữa các khoản mục trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Ví dụ : Tỷ số giữa lãi gộp với doanh thu.
+ Tỷ số giữa các khoản mục trên bảng cân đối kế toán với các khoản mục trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Ví dụ : Tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế với vốn chủ sở hữu.
+ Tỷ số giữa số liệu trên báo cáo tài chính với dữ liệu hoạt động.
Ví dụ : Tỷ số giữa chi phí tiền lương trên số công nhân.
- Phân tích tỷ suất có ưu điểm là cung cấp nhiều thông tin phong phú hơn và đáng tin cậy hơn so với phân tích xu hướng vì nó xem xét mối qua hệ giữa 2 hay nhiều khoản mục với nhau. Phương pháp này thường được sử dụng phổ biến vì giúp phát hiện những thay đổi bất thường hay những thay đổi không mong muốn. Phân tích tỷ suất được sử dụng hữu hiệu trong việc nhận ra những sự khác biệt đáng kể giữa các kết quả của công ty khách hàng và một tiêu chuẩn chẳng hạn như tỷ suất của ngành hay giữa các ước tính của kiểm toán viên và kết quả thực tế. Phương pháp này cũng rất hữu hiệu trong việc phát hiện những biến động bất thường có thể tìm thấy từ sự thay đổi của tỷ suất giữa các năm. Bằng việc so sánh qua các thời điểm khác nhau của khách hàng và ngành, kiểm toán viên có thể đạt được sự hiểu biết có ích về vấn đề ấy. (Ví dụ : tỷ lệ % của doanh thu hàng bán bị trả lại và giảm giá hàng bán so với doanh thu có thể không có biến động lớn so với mức bình quân ngành trong kỳ hiện tại nhưng so sánh xu hướng qua các năm có thể giúp kiểm toán viên phát hiện những biến động bất thường).
- Để thủ tục này hữu dụng, các tỷ số so sánh phải được tính trên một cơ sở nhất quán và mối quan hệ giữa những nhân tố trong tỷ số phải ổn định. Mối quan hệ này phải bảo đảm các yêu cầu sau :
+ Mối quan hệ này là quan hệ tuyến tính : giả định này là hợp lý với nhiều loại chi phí. (Ví dụ : chi phí bán hàng chủ yếu là tiền hoa hồng thì chi phí này biến đổi tuyến tính với doanh thu).
+ Mối qua hệ này là mối quan hệ hoàn chỉnh : cần kết hợp tất cả các nhân tố ảnh hưởng đế tỷ suất. (Ví dụ : chi phí bán hàng có thể chịu ảnh hưởng bởi doanh thu cũng như loại hàng đem bán).
+ Mối quan hệ này luôn biến đổi theo các biến : nếu trong các biến số có một yếu tố cố định thì tỷ suất sẽ thay đổi. (Ví dụ : tỷ suất giữa chi phí bán hàng so với doanh thu sẽ giảm xuống khi doanh thu tăng lên mà chi phí bán hàng lại không đổi. cần hiểu giá trị tương đối của những yếu tố cố định, yếu tố biến đổi và về những thay đổi một tỷ suất dự kiến).
+ Mối quan hệ này ổn định theo thời gian giữa các đơn vị khác nhau thì phải xem xét xem liệu có tồn tại bất kỳ sự khác biệt nào về cách tính tỷ suất hay không.
Phân tích tỷ suất còn giúp kiểm toán viên đánh giá giả định hoạt động liên tục của đơn vị. Việc xem xét về khả năng tài chính của đơn vị còn được thực hiện trong quá trình đánh giá rủi ro cũng như liên hệ với giả định hoạt động liên tục khi soạn thảo báo cáo tài chính.
1.2. Quy trình phân tích áp dụng trong các giai đoạn của kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Quy trình phân tích áp dụng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
- Theo VSA 310 – Hiểu biết về tình hình kinh doanh , đoạn 02: “Để thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có hiểu biết đầy đủ về tình hình kinh doanh nhằm đánh giá và phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị mà theo kiểm toán viên có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm toán viên, hay đến báo cáo kiểm toán…”. Kiểm toán viên cần hiểu biết trên phương diện rộng, bao gồm : hiểu biết chung về nền kinh tế như thực trạng nền kinh tế, mức độ lạm phát, các chính sách của Chính phủ…; hiểu biết về môi trường và lĩnh vực hoạt động của đơn vị được kiểm toán như tình hình thị trường và cạnh tranh, các đặc điểm của ngành nghề kinh doanh, các chuẩn mực, chế độ kế toán cũng như các quy định khác của luật pháp có liên quan đến ngành nghề…; hiểu biết về những yếu tố nội tại của đơn vị được kiểm toán bao gồm những đặc điểm về sở hữu và quản lý, tình hình kinh doanh của đơn vị, khả năng tài chính của đơn vị…
Theo VSA 520, đoạn 09, 10 :
“ - Kiểm toán viên phải áp dụng quy trình phân tích trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán để tìm hiểu tình hình kinh doanh của đơn vị và xác định những vùng có thể có rủi ro.
- Quy trình phân tích giúp kiểm toán viên xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán khác.
- Quy tình phân tích áp dụng trong giai đoạn lập kế hoạch dựa trên các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính như mối quan hệ giữa doanh thu với số lượng hàng bán hay số lượng sản phẩm sản xuất với công suất máy móc, thiết bị…”
Như vậy, khi bắt đầu kiểm toán, bên cạnh tìm hiểu về tình hình kinh doanh của đơn vị, kiểm toán viên còn phân tích các thông tin trên báo cáo tài chính mà đơn vị cung cấp để đánh giá rủi ro. Từ những phân tích kiểm toán viên xác định được các biến động bất thường. Các khoản biến động lớn thường có chứa nhiều rủi ro (Ví dụ : một sự gia tăng bất thường của giá trị hàng tồn kho tại một doanh nghiệp sản xuất, có thể là hàng tồn kho khai cao để khai thiếu giá vốn, làm tăng lợi nhuận), các khoản biến động bất thường này được kiểm toán viên xem xét có phù hợp với tình hình kinh doanh của đơn vị hay không. Sau khi phân tích biến động các khoản mục trên báo cáo tài chính, các chỉ số tài chính và phi tài chính khác, kiểm toán viên định hình được bức tranh tổng thể về tình hình kinh doanh của đơn vị, kiểm toán viên xác định được đơn vị hoạt động có hiệu quả không, những vùng nào có thể có gian lận, sai sót.
Điều đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này là thông qua các chỉ số về khả năng thanh toán, tỷ số sinh lời của đơn vị, kiểm toán viên đánh giá được khả năng hoạt động liên tục của khách hàng, từ đó kiểm toán viên có thể xem xét liệu báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở hoạt động liên tục hay không (Ví dụ : đọc lướt báo cáo tài chính, kiểm toán viên nhận thấy khoản mục tài sản cố định giảm đáng kể, kiểm toán viên đoán quy mô đơn vị đang thu hẹp, đánh giá này sẽ là cơ sở để kiểm toán viên quyết định có thực hiện các thủ tục xác minh cần thiết hay không; một ví dụ khác nữa là việc tính các chỉ số thanh toán rồi so sánh với mức bình quân ngành, nếu chênh lệch dưới mức bình thường, chỉ ra rằng mức rủi ro tương đối cao của sự thiếu hụt tài chính, có thể giả định hoạt động liên tục bị vi phạm).
1.2.2 Quy trình phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Theo VSA 520, đoạn 11, 12 :
“ Trong quá trình kiểm toán, nhằm giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thực hiện quy trình phân tích hay kiểm tra chi tiết hay kết hợp cả hai. Nhằm xác định thủ tục kiểm toán thích hợp cho một mục tiêu kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xét đoán hiệu quả của từng thủ tục kiểm toán.
Kiểm toán viên phải thảo luận với Giám đốc, kế toán trưởng hay người thay mặt của đơn vị được kiểm toán về khả năng cung cấp thông tin và độ tin cậy của các thông tin cần thiết cho việc áp dụng quy trình phân tích, kể cả kết quả phân tích mà đơn vị đã thực hiện. Kiểm toán viên được phép sử dụng các dữ liệu phân tích của đơn vị nếu tin tưởng vào các dữ liệu này.”
- Mục tiêu chính của quy trình phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán là so sánh và nghiên cứu các mối quan hệ để giúp kiểm toán viên thu thập bằng chứng về tính hợp lý chung của số liệu, thông tin cần kiểm tra, đồng thời phát hiện khả năng tồn tại các sai lệch trọng yếu. Quy trình phân tích trong giai đoạn này có thể cung cấp các bằng chứng có hiệu lực khi một số liệu có thể được xác minh bằng cách đối chiếu với các số liệu khác. (Ví dụ, hoa hồng hưởng trên doanh số, tiền lãi ngân hàng phải thu (hay phải trả), thu nhập (hay chi phí) thuê, chi phí khấu hao…).
- Khi thực hiện quy trình phân tích như là một thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên phải xem xét các yếu tố sau :
+ Mục tiêu của phân tích và độ tin cậy của kết quả thu được.
+ Đặc điểm của đơn vị và mức độ chi tiết hóa thông tin. (Ví dụ : quy trình phân tích áp dụng đối với thông tin tài chính của từng đơn vị thành viên sẽ hiệu quả hơn là chỉ áp dụng đối với thông tin tổng hợp của các đơn vị…).
+ Khả năng sẵn có của các thông tin tài chính và phi tài chính.
Nhận xét :
- Hàng tồn kho năm giảm so với năm ngoái 13,24% trong khi giá vốn hàng bán tăng 76,93% là do tình hình tiêu thụ sản phẩm năm nay cao hơn năm ngoái. Qua bảng phân tích trên thấy thấy hàng tồn kho giảm chủ yếu là do nguyên liệu, vật liệu năm nay giảm so với năm ngoái. Nguyên nhân là do năm nay đơn vị thay đổi nhà cung cấp dẫn đến giá thành của nguyên liệu, vật liệu đầu vào giảm so với năm ngoái.
- Vòng quay hàng tồn kho năm nay giảm 0.44 vòng so với năm ngoái, ta thấy giá vốn hàng bán tăng 76.93% trong khi số dư hàng tồn kho lại giảm 13,24%, trong trường hợp này ta chưa thể kết luận chắc chắn vòng quay hàng tồn kho giảm là có hợp lý hay không. cần điều tra thêm về chính sách bán hàng, tình hình dự trữ hàng tồn kho của đơn vị.
- Tỷ trọng hàng tồn kho so với tài sản ngắn hạn và tổng tài sản năm nay thấp hơn năm ngoái. Mặt khác hàng tồn kho chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng tài sản ngắn hạn cũng như tổng tài sản. Và dự kiến sang năm 2008, tỷ trọng này càng giảm, do công ty là đơn vị hoạt động trên lĩnh vực vận chuyển là chủ yếu, hàng tồn kho chủ yếu là các phụ tùng ô-tô để thay thế sửa chữa.
- Tình hình giá thành sản phẩm (dịch vụ vận chuyển) qua các tháng như sau :


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D áp dụng haccp vào quy trình sản xuất dứa khoanh đóng hộp Nông Lâm Thủy sản 0
D Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra Luận văn Luật 0
D Quy tắc xuất xứ hàng hóa với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN Văn hóa, Xã hội 0
T Áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ Luận văn Kinh tế 0
C Pháp luật Quốc tế và Luật Việt Nam quy định Hoạt động nhập khẩu, thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ P Luận văn Kinh tế 0
I Quy chế pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát Luận văn Kinh tế 0
D Phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụn Luận văn Kinh tế 0
D So sánh giữa 2 loại văn bản: văn bản áp dụng pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật Luận văn Luật 0
N Nghiên cứu xây dựng các quy trình IS0 9001:2008 áp dụng trong công tác lưu trữ tại Đại học Quốc gia Văn hóa, Xã hội 0
T Quy trình áp dụng 5s tại công ty tmic Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top